điêu khắc

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

chui vào cơn say


chui ra khỏi giấc mơ 
lại vào giấc mơ khác
khi trời xanh lên men
trái đất là bầu rượu
không uống cũng say mèm
 
chui ra khỏi cơn say
lại vào cơn say khác
dù cho lên thác xuống ghềnh
thì ta vẫn cứ bám vào trời xanh


Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Trong Lòng Gỗ Quan Tài - sáu


 truyện nhiều kỳ

sáu


Đừng chán nản! Ta tự nhủ và trở mình nằm sấp. Tứ chi bốn góc quan tài, ta bắt đầu đo đếm. Điểm chính giữa sẽ là sống lưng. Tất nhiên sống lưng không chịu nổi một cú đội. Chỉ còn đầu, hai vai, và hai mông. Đầu cũng bị loại. Ta cân nhắc giữa vai phải và mông phải. Không hiểu sao ta bỗng nhớ câu chuyện lục tổ Huệ Năng kể trong kinh Pháp Bảo Đàn. Khi lục tổ được bí truyền y bát, giữa đêm còn đen kịt đã vội vã trốn về phương nam. Tăng chúng biết được ráo riết đuổi theo. Trong số người đông đảo đuổi, có một vị tăng nguyên là võ tướng bản lãnh cực khỏe tên Trần Huệ Minh. Ông ta lại có thuật khinh công “phi mao thoái” lướt nhanh như chồn sóc nên không mấy chốc đuổi kịp Huệ Năng. Biết không thể đối phó bằng sức mạnh, Huệ Năng bèn để y bát trên một tảng đá, rồi ngồi ẩn trong bụi cỏ chờ xem diễn biến. Trần Huệ Minh nhìn thấy y bát rành rành, tức thì mừng rỡ chụp ngay. Nhưng cũng ngay khi ấy lòng ông ta rộn lên: sao có thể lấy y bát dễ dàng thế? Bao nhiêu người muốn tranh đoạt y bát này thì họ có chịu khoanh tay cho ta mang y bát đi không? Y bát là vật bảo tín truyền từ sơ tổ Đạt Ma ắt phải có danh phận mới được giữ gìn, nếu mình dùng sức mạnh chiếm lấy thì có danh chính ngôn thuận không? Mình xuất gia tu học mong tìm Phật hay tìm y bát? Người được kế truyền y bát chính thức kia là ai? Đó là ta đoán chừng trong tâm tư Trần Huệ Minh ngần ngừ chưa dám nhấc y bát lên, chứ không phải phép lạ nào giữ chặt được y bát vào tảng đá. Ừ sao ta nghĩ đến chuyện này vào lúc này làm gì nhỉ? Ta đang nhẩm tính cách cạy phá nắp quan tài cơ mà? Ồ phải rồi! muốn cạy phá nắp quan tài không thể chỉ dùng sức. Sức ta đâu có nhiều. Phải dùng cả thân tâm may ra mới cạy phá được. Ông Trần Huệ Minh quì trước tảng đá có y bát nói: tôi vì Phật pháp tới đây chứ không phải vì y bát. Lục tổ Huệ Năng bước ra ngồi lên tảng đá bảo: nếu thế ông có thể im lặng, bặt hết duyên trần, không sanh khởi một niệm. Tất cả đều yên vắng. Lát sau Huệ Năng nói: Không nghĩ thiện, ác, chính ngay chỗ đó là bổn lai chân diện mục của Minh Thượng Tọa. Vừa nghe câu ấy, Huệ Minh đại ngộ. Theo lời lục tổ, ông đi đến Viên Châu, sau trụ tu ở Mông Sơn (Tứ Xuyên), đổi tên là Đạo Minh. Tương truyền Đạo Minh đại sư từng thuyết pháp cho quỷ được vãng sanh, mở ra tập tục cúng tế các cô hồn ma quỷ gọi là “Mông Sơn Thí Thực” vào mỗi mùa thu, trùng dịp lễ Vu Lan. Ta từng dự lễ này nhiều lần. Thì ra nãy giờ ta mải nối kết chữ “mông”. Nó hiện ra rồi mãi một đoạn kinh truyện dài ta mới hiểu chữ “mông”, cùng âm nhưng dĩ nhiên hoàn toàn khác nghĩa với tên địa lý “Mông Sơn”. Ta bật cười hích hích! Xin lỗi, ta chẳng hề cố ý diễu cợt hay báng bổ gì đâu. Tại ta đang cân nhắc nên dùng vai hay mông để húc nắp quan tài. Những liên tưởng nhì nhằng làm ta kinh ngạc về đầu óc con người. Nó khác với Google nhiều đấy chứ. Nó làm ta tự tin trở lại. 
(còn nữa) 

đọc lại kỳ

một

hai

năm


Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

Trong Lòng Gỗ Quan Tài - năm

 truyện nhiều kỳ


năm

Cơn xúc động yếu mềm, và cái đầu dịu dần. Ta tưởng tượng khối không gian đen đặc hình chữ nhật ta đang nằm trong lòng đất cùng cất tiếng thầm thì với các côn trùng. Có loài côn trùng vừa ở dưới vừa ở trên mặt đất. Như loài ve sầu, ở dưới đất lâu hàng chục năm rồi đồng loạt hẹn nhau lên mặt đất ca hát và ái tình. Hay thật! Ta được ký thác làm người, không tham dự gì được vào thế giới côn trùng. Ta bỗng thèm nói chuyện với chúng. Khi ve còn sống trong lòng đất, chúng mặc một loại áo giáp cứng là vỏ bao bọc bảo vệ. Đến lúc ve chui ra khỏi đất thì chúng mới cởi bỏ vỏ giáp cứng để bay đi với bạn tình. Nhưng lúc cởi giáp là lúc thập phần nguy hiểm, chúng tơ non yếu ớt, sẽ là mồi ngon cho nhiều loài. Con người thì chờ bắt chúng về xào nấu nhậu nhẹt. Trong quá khứ, ta đã từng ăn ve. Sau nghĩ lại thấy ân hận quá. Công trình hàng chục năm của chúng để có giây phút bay bổng yêu thương mà lại bị ngăn chặn giết hại một cách ngang xương!
Từ rất lâu ta không được nghe và thấy ve. Mãi đến cuối mùa hè năm 2003 nhân đi thăm bạn tình ở thành phố San Antonio, tiểu bang Texas ta mới xúc động khi thấy xác ve bám la liệt ngoài cửa sổ và cây cối khắp nơi. Tiếng ve ra rả như bài ca hể hả của lứa đôi đệm cho mối tình màu hoa phượng. Bạn tình của ta đang ghi danh học cao học trong trường UTSA. So với tuổi của ta thì cô còn quá trẻ, không xứng đôi. Bấy giờ ta vụt ví cô với ve sầu. Thâm tâm ta cầu mong cô cất cánh bay tìm được bạn tình đồng trang lứa. Vì thế khi gần gũi, ta hết sức kiềm chế để không xâm phạm cô. Cũng như ta không ăn ve nữa ấy mà!
Chao ôi sao mi lại mơ mộng viển vông vào quá khứ như thế? Mi có biết là không ra khỏi quan tài này ngay thì mi sẽ chết rất nhanh không? Ồ! Biết chứ biết chứ! Nhờ mơ mộng mà ta hết đau đầu đấy. Thôi ta sẽ nghe lời ngươi đây. Nhưng hãy cho ta bày tỏ nốt những suy nghĩ của ta: tuy ta thuộc loài người, nhưng vẫn là động vật. Vậy ta sẽ có được mọi khả năng của các động vật không? Ta chỉ bị giới hạn trong kiếp người mà thôi. Nhưng ta lại có lòng óc. Lòng óc ta chắc là có giới hạn rộng lớn hơn thân xác. Như khi ngủ là ta bay được như chim. Ta bay không cần vỗ cánh, chỉ nhún chân rất khẽ. Có điều ta chỉ bay một mình, chưa hề bay chung hàng đoàn như chim. Ta cũng có khả năng trèo tường khoét đất như chuột, chồn, cáo, thỏ… có khả năng săn mồi như sư tử, cọp, beo, chó…có khả năng vùng vẫy lội bơi như mọi loài dưới nước…? Vậy ta có thể áp dụng những khả năng ấy vào việc đào thoát khỏi cỗ quan tài này không nhỉ? Ai cấm mi thử đâu. Sao mi không kể luôn là mi có tài ăn ngủ lười biếng như heo, bắt chước ăn cắp như khỉ, khôn lanh độc ác như rắn…ha ha ha! Ta chỉ nhắc để mi nhớ: coi chừng mi bị sập bẫy mi. Vì tất cả các loài đều bị cái lòng óc mi bẫy sập!
Ta lặng lẽ bỏ chân quắp miếng giẻ tay áo xuống. Rà soát góc nắp quan tài. Tất cả đều nhẵn trơn. Ta hoảng hốt sờ mò lâu hơn nữa. Cái khe nứt như sợi tóc trước đây đã biến mất. Ta quên một điều: khi gỗ nở, nó xóa hết vết hở! Ta đã sập bẫy ta đúng như hắn nói!
Ta đã ỷ y tự phụ vào kiến thức suy diễn của mình. Giờ phải chờ gỗ khô. Nhưng chờ đến bao giờ dưới lòng đất ẩm? Sức lực ta suy giảm là lẽ tất nhiên rồi. Ta làm gì còn cơ hội đợi chờ. Nằm thẳng cẳng suy nghĩ. Mắt cá chân đau và sưng, ta khó đạp cú thứ hai lắm. Vả lại cách này không mấy hiệu quả. Ta phải nhũn nhặn, bình tĩnh, đừng cay cú xốc nổi. Ta còn kém mọi côn trùng. Hầu hết chúng có các đốt thở ở toàn thân nên hấp thụ dưỡng khí dễ dàng hơn ta nhiều. Chúng tự nhiên di chuyển theo chiều đông-tây, chiều của mặt trời. Còn các loài động vật trên mặt đất hầu hết tự nhiên sinh hoạt theo chiều bắc-nam, chiều của từ trường. Ta thì mù tịt mọi chiều hướng trong cái không gian đen tối vô minh này. Hình như ta đang bị tước bỏ nhiều khả năng của côn trùng và đông vật. Ta nghĩ chắc chỉ còn lòng óc là vẫn hoạt động tốt. Ta thử liền bằng cách hỏi đại: thế bốn mươi mốt năm trước mi ở đâu? Hi hi hi! Ấp úng mãi ta mới lắp bắp được hai chữ: Đà Lạt. Thua xa Google!
(còn nữa) 

Đọc lại kỳ 

một

hai




Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

trong lòng giấy quan tài

Tôi khởi viết truyện nhiều kỳ trong lòng gỗ quan tài từ tháng 11 năm 2010. Nhưng truyện bị bế tắc mãi đến tháng 11 năm 2011 mới khai thông được bốn đoản khúc dạo đầu. Tôi đã đóng một cái hòm gỗ giống cỗ quan tài thật để trong tủ quần áo, và vào nằm thử nhiều lần để lấy cảm giác viết. Đây là truyện hư cấu, nhưng bất ngờ bạn Tường Vân gọi điện thoại cho hay có  chuyện thật xảy ra ở bên Anh Quốc: một phụ nữ bị chôn sống trong quan tài bằng giấy bìa cứng bởi chính vị hôn phu của mình. Sau chị dùng cái nhẫn đính hôn phá vỡ được quan tài và chui lên khỏi mặt đất. Tôi hỏi tìm cách liên kết bản tin, nhưng bạn Tường Vân quên mất. Tôi nhờ bạn Bích Lưu tìm giùm. Bạn có thể bấm vào địa chỉ nối kết  đây để xem chi tiết cùng hình ảnh. http://www.dailymail.co.uk/news/article-2071159/Michelina-Lewandowskas-cardboard-coffin-engagement-ring-used-free-herself.html

Cám ơn Bích Lưu. Và bạn sẽ đọc tiếp truyện trong lòng gỗ quan tài những ngày tới. Nhưng mong bạn góp ý để tôi viết được hợp lý. Cám ơn bạn trước đấy.

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

Cao Bá Quát: về giữa tử sinh




Trong sớ xin từ chức giáo thụ ở Quốc Oai, Cao Bá Quát lấy cớ về nuôi mẹ già, thì hẳn những bài này ông làm vào lần trở về lần cuối cùng ấy (1853 – 1854).(xem: về mái nhà xưa )

Làng ông ở cách Hà Nội khoảng 17 cây số về phía nam. Làng có một cây gạo rất to, mọc vươn lên cao tít. Dưới gốc cây gạo già đó, người ta dựng một cái điếm canh. Bài này ông có lời ghi chú: “Ngã hương lộ nhập Trung Nghĩa lý môn, tức quá Thiên Mã hồ bạn, vọng ngã gia cách viên nhĩ” Làng tôi, đi qua cổng làng Trung Nghĩa đến hồ Thiên Mã, đứng đó ngó về nhà chỉ cách một khu vườn”. Lời ghi chú của ông như định gửi gấm? Có thật lòng ông không động? Lòng ông chỉ còn muốn trở về mái nhà xưa, ở đó có mẹ già, có con cái thân nhân, có làng xóm, học trò, có một đời thanh nhàn im lặng?
Sử sách triều Nguyễn ghi “ năm Tự Đức thứ 7 (1854) Cao Bá Quát cáo quan về tụ tập đồ đảng gồm nhiều thành phần trí thức, sinh viên học sinh; liên kết với nhiều lực lượng dân tộc thiểu số như Đinh Công Mỹ, Bạch Công Trân, suy tôn Lê Duy Cự là giòng dõi nhà Lê, khởi loạn. Sử còn ghi rõ năm ấy mất mùa, vào tháng 6 tháng 7, châu chấu bay mù trời, cắn nát những cánh đồng lúa đang lên. Dân tình đói khổ. Cao Bá Quát định ngày đánh thành Hà Nội. Nhưng việc bại lộ nên phải khởi động trước dự trù. Cao Bá Quát đưa quân đánh phủ Ứng Hòa và huyện Thanh Oai, Hà Nội. Bị quân triều đình đánh tan ở xã Đồng Dương, Quát lại theo lối Mỹ Lương chạy lên phủ Vĩnh Tường, đốt phá huyện Tam Dương. Quát thường đi về quấy nhiễu phủ huyện Quốc Oai, Yên Sơn. Một hôm bị phó lãnh binh Lê Thuận Đại đem quân đón đánh, Quát chết tại trận. Ngụy thượng thư Nguyễn Kim Thành, ngụy phó vệ Nguyễn Văn Thực đều bị bắt. Trận ấy quan quân chém được hơn 100 thủ cấp, bắt sống được 80 tên. Triều đình đưa đầu Quát đem bêu khắp các tỉnh bắc hà rồi quăng xuống sông Nhị Hồng.
Người anh sinh đôi là Cao Bá Đạt, cử nhân năm 1834, đang là tri huyện Nông Cống (Thanh Hóa) bị bắt giải về kinh; giữa đường Đạt uống thuốc độc tự tử.
Dư đảng Cao Bá Quát còn hoạt động hơn 2 năm sau mới hết”. (Theo Đại Nam Chính Biên Nghịch Thần).
Những sự kiện lịch sử đó được công bố khắp nơi, nhưng vẫn không làm át được bao nhiêu huyền thoại dân gian nói về Cao Bá Quát. Cái chết của ông bỗng trở thành một công án khó hiểu. Người ta không ngớt bàn tán từ đó đến nay.
Trong những lời truyền tụng về cái chết của Cao Bá Quát, thì hai trường hợp sau đây được suy nghĩ nhiều nhất:
I – Truyền tụng về một trang tráng sĩ Cao Bá Quát không chịu được những chuyện bất công của triều đình nhà Nguyễn, nên đã bất bình ra  tay, đến khi bị bắt, trong tù còn ngâm nga:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương
Ngụ ý khinh bỉ cả Đế, Vương. Lúc bị hành hình còn ngạo mạn cười:
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời!
Truyền thuyết này được ghi trong văn học sử như một chân dung Cao Bá Quát ngang tàng, khinh thế ngạo vật, coi thường tử sinh.
II – Nguyên Cao Bá Quát bị Nguyễn Bá Nghi để ý thù ghét từ lúc còn làm việc ở Huế. Nguyễn Bá Nghi vào nhà Tùng Thiện Vương, lạy chào Tùng. Lúc đó Cao Bá Quát đang ngồi uống rượu với Tùng, đã không đứng dậy lại còn nói với Tùng: “Nguyễn Bá Nghi về chính sự không hiểu ra sao chứ văn thì cũng xoàng.” Vì thế Bá Nghi rất giận. Khi Cao Bá Quát bị đổi làm giáo thụ Quốc Oai, Sơn Tây (1851) thì Nguyễn Bá Nghi đang là tổng đốc vùng ấy. Người này vốn rất thâm hiểm, hách dịch với cấp dưới, tâng bốc hối lộ bề trên.( Sau y làm tới Thượng Thư Bộ Hộ; năm 1861 làm Khâm Sai Đại Thần vào Biên Hòa xử tội Nguyễn Tri Phương và các tướng sĩ; y xử rất nặng tay: cách chức và trảm giam hậu các ông Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển,Tôn Thất Cáp, còn các thuộc quan trong quân thứ và tỉnh phần Gia Định đều bị cách chức hết.- Phan Khoang/ Việt Nam Pháp Thuộc Sử /Sài Gòn 1961) Bây giờ Bá Nghi có cơ hội làm khó dễ Cao Bá Quát. Y sức cho các quan giáo thụ, huấn đạo mọi phủ , huyện , mỗi đầu tháng phải dẫn học trò đến Văn Miếu bình văn do y làm chủ tọa. Cao Bá Quát phải tuân hành. Nhưng ông chỉ đem những quyển xoàng đến; còn quyển hay, ông dẫn học trò lên núi bình riêng với nhau. Hỏi thì ông đáp: “bình văn trên núi  cho khỉ nó nghe, dưới đất không ai biết nghe.” Nguyễn Bá Nghi biết chuyện càng để tâm thù.
Đến năm 1854, Cao Bá Quát lấy cớ về nuôi mẹ già, xin được từ quan. Nguyễn Bá Nghi phải bấm bụng chấp thuận, nhưng vẫn theo dõi Cao tìm cơ hội ám hại.
Cao Bá Quát về làng. Bấy giờ ông chỉ còn một người mẹ già, và hai con trai là Bá Thông, Bá Phùng. Ông mở trường dạy học tư, và du ngoạn đây đó. Một hôm Cao Bá Quát đến dự buổi cúng tế linh đình, có bày các hàng mã để đốt như gươm giáo, người ngựa, cờ quạt. Nguyễn Bá Nghi vu cho Cao tội họp kín để khởi loạn. Quân lính ập vào đám cúng, bắt giải lên Hà Nội. Cao Bá Quát bị xử chém. Hai con trai đều bị giết.
Những chi tiết này phù hợp với trường hợp thứ I, nên mới có cảnh Cao Bá Quát ngâm nga ngạo mạn trong xà lim.
Ngoài ra còn có giai thoại khác kể rằng: sau khi bị Nguyễn Bá Nghi bắt, Cao Bá Quát lại được cứu thoát nhờ dân chúng và bạn bè đánh tráo tù nhân. Cao Bá Quát cùng mẹ già và hai con trai trốn đi được bằng thuyền. Trong cuốn “Cao Chu Thần Thi Tập” do Sa Minh Tạ Thúc Khải tuyển dịch có chép hai bài thơ, ý tứ gần như để tả lại câu chuyện trốn tù này của Cao Bá Quát. Tuy chưa có bằng chứng xác thực, chúng tôi cũng sao chép lại nguyên bài thơ trang 464,465:
TỴ ĐỊA
Phục thử huề gia khứ
Phiêu nhiên mạn bắc hành
Thăng Long phiến vân viễn
Nghĩa Trụ nhất châu khinh
Vô lộ qui hương tỉnh
Phòng nhân thức tánh danh
Xuân Cầu, Đồng Tỉnh khúc
Vị hạ phú nhân tình

Dịch nghĩa:
NƠI Ở LÁNH MÌNH
Lại cũng đem cả gia quyến đi, lan man nhằm hướng bắc mà đến. Áng mây Thăng Long đã xa cách, một thuyền Nghĩa Trụ cũng nhẹ trôi. Đã không còn đường về quê làng, lại còn phòng người biết tên tuổi nữa. Những khúc hát ở làng Xuân Cầu, Đồng Tỉnh, cũng chưa lúc nào nhàn rỗi để ngâm nga.

PHIẾM NGHĨA TRỤ GIANG
Tà nhật mãn tùng bạc
Biển châu nhiễu trúc phù
Kiều khuynh dư thạch trụ
Thủy trọc đái hà lưu
Thiển chữ liên quyền lộ
Ngưng ba xuất một âu
Khước tư phi điể lạc
Binh các kỷ thời hưu

Dịch nghĩa:
DONG THUYỀN SÔNG NGHĨA TRỤ
Mặt trời đã dọi khắp cả bụi lùm, mà coi vẫn mỏng manh; chiếc thuyền thì quanh theo khóm trúc mà nổi trôi. Cầu đã nghiêng ngả rồi mà cột đá còn trơ đó, giòng nước đục chảy theo con sông. Chim cò kia thì cong mình đứng trên vũng cạn, chim âu nọ thì chìm nổi giữa lớp sóng lừng đừng. Nhân đó mà nghĩ đến bày chim kia vui vẻ liệng bay mà hiện giờ riêng ta lâm cảnh lửa binh, biết khi nào mới hết.

Có lẽ vấn đề không phải ở nơi sử sách triều Nguyễn, hay lời truyền tụng của dân gian mà ta có thể cả quyết trong nghi án Cao Bá Quát cùng cái chết của ông. Ông đã từng chịu hàm oan trong vụ chấm thi năm 1841, đã từng từ cõi chết trở về khi bản án tử hình được đổi thành giảo-giam-hậu. Ông đã từng bị sa thải năm 1843, rồi bị tình nghi chính trị năm 1851 để bị đày đi làm giáo thụ ở Quốc Oai. Tất cả, ông đều chịu đựng, cũng như ông đã chịu đựng làm người. Ông có cái cười rất mực trượng phu như ta đã thấy, và cái ngông cuồng rất mực thi sĩ. Ông yêu người, yêu vật, yêu quê hương làng nước, yêu từng ngọn cỏ đồi cây với một tấm lòng chân thực, đôi khi đến vụng về vì cuồng nhiệt. Ông có tư tưởng hành động, chống tham ô lãng phí, chống bất công xã hội, chống những nghịch cảnh phi lý của kiếp người. Đôi khi những tư tưởng hành động ấy thúc đẩy mãnh liệt khiến ông bị đau đớn dày vò vì sự bất lực và bế tắc. Có lẽ ý thức về Tài, Thời, và Nhân, Mệnh, nên qua thơ văn ta không thấy ông hé mở một chân trời hành động thật sự nào. Tư tưởng hành động của ông mang nhiều vẻ đẹp lãng mạn hào hùng hơn là cách mạng chính trị. Cho nên ông không chủ trương bạo động. Vụ án chấm thi là một bằng cớ. Tư tưởng, tâm tình và nghị lực của ông qua thơ văn giai đoạn đó có thể so sánh với giai đoạn đấu tranh bất bạo động cuả Ghandi. Những bài thơ đầy tình tự và kiên quyết trước bạo lực đã khai sinh ra một ông Thánh. Dân gian gọi Cao Bá Quát là " Thánh Quát”. Đối với người Việt, sự phong thánh mang giá trị tuyệt đối về tinh thần.
Phải chăng Cao Bá Quát đã đi về giữa tử sinh trong hồn thiêng sông núi. Và phải chăng định mệnh khắt khe vẫn chập chùng trên biển đời vô tận, vẫn rình rập trong bóng tối Việt Nam.
Xét những bài thơ cuối đời Cao Bá Quát, ta càng thấy rõ tư tưởng hành động của ông đồng vọng với phương trời tư tưởng đông phương trong quan hệ Thiên/Địa/Nhân, và ông đẩy tưởng này đến kỳ cùng cuộc tồn sinh sử lịch.
Trong bài Du Mỗ Cố Trạch Dạ Tính Đàn Tranh, Cao Bá Quát kể  sau tám năm lặn lội gian nan, khi trở về ông có ghé thăm một người bạn gái cũ ở bên bờ sông Tô Lịch. Cao Bá Quát ví lòng người thiếu phụ có những đắng cay đau khổ, “một mình mình biết, một mình mình hay”, như hạt sen ôm riêng cái mầm xanh đắng ngắt. Đời người phụ nữ như bông liễu yếu ớt, mỗi lần gió thổi là mỗi tả tơi tơ liễu, rụng bay tứ tán. Tại sao lại có thân phận đau thương hiu hẩm ấy dành riêng cho phụ nữ? Và ông có câu trả lời dứt khoát: bởi khói nhân gian đen bẩn, nham hiểm, tham lam. Cho nên ông cảm khái muốn khơi hết nước trong giòng sông Tô Lịch để rửa sạch khói nhân gian đó của người đời.
Sen ôm mầm đắng một mình
Liễu gầy gió cuốn thình lình tả tơi
Sông Tô khơi hết nước trời
Rửa cho thân phận cuộc đời sạch trong
(Liên tử hữu tâm tri độc khổ
Dương hoa vô lực vị thùy mang
Thi chiêu bách hộc Tô giang thủy
Biến dữ nhân gian tẩy tục trường)
Một bài khác Cao Bá Quát kể nhân nhà bị giột, phải ra trước thềm ngồi tránh giột. Lòng buồn bã, thân lười biếng ủ ê, ông không thiết cả ngâm nga thơ phú. Tư tưởng hành động của ông bắt đầu “hành động”. Ông tự hỏi:”biết tìm cách tỵ địa cho mình cũng tạm ổn, nhưng còn việc vá trời cho khỏi giột thì làm sao?” Câu hỏi làm rúng động hết tâm can. Ông vẫn quan niệm đời người là quán trọ, mà khách trọ đã lâu ngày. Nay xuân đã quá nửa, mà thời cuộc mỗi lúc mỗi cấp bách nguy nan, khiến lòng khách càng lo lắng xốn xang. Hỡi ơi, nơi căn nhà giột này cũng còn là nơi kiệt tác may mắn hân hạnh cho ta biết chừng nào. Cũng nhờ nó mà được chút gió mát nhẹ nhàng.

Khoảnh Nhân Trận Vũ

Ốc lậu di diêm tọa
Cùng sầu lại tự nga
Dĩ tri tỵ địa ổn
Tranh nại bổ thiên hà
Khách cửu xuân du bán
Thời nguy lụy khước đa
Thanh phong lai kiệt tác
Hạnh vị phiến vi hòa

Tránh Giột
Ra thềm tránh giột bồn chồn
Nghe lòng biếng nhác không buồn ngâm nga
Đã đành tỵ địa cũng qua
Vá trời chữa giột làm sao bây giờ
Xuân đi già nửa đời người
Bao cơn nguy biến khôn lường được đâu
Gió còn thoảng đến bên lầu
Còn hên còn được khô đầu mát lưng

Hai câu kết mang một vị đắng rất nhẹ, hòa với cái cười buồn, làm tư tưởng hành động trên hai câu thực thành nỗi ám ảnh, tư duy. Hình như không lúc nào Cao Bá Quát không bị nỗi ám ảnh ấy vây buả. Tấm lòng ông để cả vào non nước, để cả vào con người, mà không có cơ hội hành động xây dựng thì lòng ông phải ấm ức buồn phiền. Những ngày tháng được nhàn tản ở quê nhà, sống đạm bạc gần như kham khổ, nhưng ông vẫn áy náy như thấy mình còn xa hoa hưởng thụ quá nhiều “kho vô tận”
Nhàn thê tâm tự thích
Lưu thưởng ý thiên xa
(Trong cảnh nhàn thì lòng vẫn thích
Nhưng vẫn có vẻ xa hoa hưởng thụ)

Ta có thể gọi đó là “nỗi-ám-ảnh-không-rời” hay lời thì thầm của tái tim yêu nước thương đời. Một lần khác mưa to trên sông, mưa sầm sập như nghiêng trời lệch đất, Cao Bá Quát nhìn những đợt sóng mưa dào dạt bay như vỡ bờ. Cảnh sông xa mờ hòa cùng mưa gió, rít từng cơn làm ông bật tiếng than:”Mặt trời trốn ở đâu mà lại để cho mưa gió cuồng nộ dân gian, để cho kiếp người oán than mãi!”. Lần đó ông ngâm thơ vang cả căn phòng sách. Ông thấy hơi thu như đánh động lòng trai, như thúc giục cuộc lên đường.
đối vũ
bạo vũ khuynh thiên lậu
phi đào táp địa lai
thế liên giang sắc tráng
thanh nhập dạ phong ai
xích nhật hành hà đạo
thương sinh thán kỷ hồi
khách tình ngâm vọng viễn
thu chí chính tương thôi

nhìn mưa
mưa sầm sập như trời đổ nước
sóng tứ tung đất ước vỡ toang
một màu sông nước kinh hoàng
đêm reo gió rít lại càng thê lương
mặt trời ơi trốn phương nào thế
để con người mong chết mong mòn
thơ ngâm vang vọng trong phòng
hơi thu đánh động nỗi lòng nước non

Cao Bá Quát làm thơ bao giờ cũng gửi gấm, và đời ông bao giờ cũng lên đường. Ông gửi gấm cho con người, và lên đường vào sông núi. Suốt đời ông tin kính vái chào đóa mai trắng, khoa kiếm dưới trời trăng. Ông bảo kiếm pháp võ học của ông không bằng Tổ Địch đi chăng nữa, ông vẫn cầm kiếm múa. Thơ có kém Lý Bạch, nhưng ngâm lên vẫn rụng được ngôi sao vàng.
Võ không giỏi vẫn cầm kiếm bạc
Thơ tuy xoàng ngâm lạc ngàn sao
(vũ phi Tổ Địch không đề kiếm
thi nhượng Trường Canh diệc lạc tinh)
ngoài MAI và KIẾM, ông còn có mối cảm đặc biệt với SEN. Một lần uống rượu ở nhà bạn đã thật say, Cao Bá Quát trở về một mình, chưa cần bạn phải dìu đỡ. Ông thấy đầy trời khói sương phủ khắp một con sông dài, những cụm tre chuối vụt mờ đi trong bóng chiều. Ông có cảm giác bay bổng cô đơn và cô độc. Chợt đóa sen hồng vụt hiện ra ven đường sông. Ông mừng rỡ như gặp người tri kỷ. Ông cười đùa hào hứng với sen: liệu mặt sen có đỏ hơn mặt người say rượu như ông không?

bạc vãn túy qui

minh đính qui lai bất dụng phù
nhất giang yên trúc chính mô hồ
nam nam tự dữ liên hoa thuyết
khả đắc hồng như tửu diện vô ?


chiều tối uống rượu về

say khướt mười mươi thả bộ về

tre xanh sông khói thảy mơ hồ
lẩm nhẩm một mình nhìn sen thốt
có đỏ như là mặt rượu ta ? 
 

Hoặc hoa sen chính là định mệnh cuối cùng của đời ông? Ông gặp sen là ông mỉm cười: bao nỗi lênh đênh chìm nổi trước đây không cần nhắc đến, tay cầm bông sen mỉm cười tự biết đời mình.
Bình sinh lãng tích na trùng vấn
Thủ bả liên hoa tiếu tự tri
(Vãn Du Sài Sơn)
Đã qua những quãng bềnh bồng
Mỉm cười cầm đóa sen hồng biết ra
Phải chăng ông muốn mượn nụ cười của ngài Ca Diếp để tiếp dẫn một tư-tưởng-hành-động-độ-đời từ phương tây. Mặt trời đang lặn ở phương tây. Vậy thì đâu là chân diện mục của tư-tưởng-hành-động-cao-bá-quát ? Hình như có tiếng của ông vọng về:
Thủ bả liên hoa tiếu bất ngôn
Bổn lai phi ngã diệc phi thiền
(túy đề Đông An Tự)
 Tay sen mỉm một nụ cười
Không thiền mà cũng không người trước sau

Những tiếng vọng của thơ Cao Bá Quát hình như trùng hợp với một truyền thuyết khác : kể rằng sau khi được bạn bè và dân chúng giải cứu, ông được đưa về tu ở một cảnh chùa trên vùng núi Việt Bắc năm 1855.
Mong là như thế. Và chúng tôi tin thế.
 

tường vũ anh thy 1982
(trích trong Cao Bá Quát Giữa Hồn Thiêng Sông Núi - Ức Trai xuất bản 1985)








Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

Trong Lòng Gỗ Quan Tài - bốn

 truyện nhiều kỳ


bốn

...ta tỉnh lại với lời xin lỗi. Bàn chân và đầu gối còn ê ẩm. Mạng sườn bên trái còn đau đau. Ta đã không theo đúng kỹ thuật vì không đủ khoảng cách thôi. Lần ngất này chắc là rất ngắn. Ta ngửi được mùi đất cỏ. Có khá nhiều dưỡng khí hơn rồi. Chắc cú đạp đem đến kết quả đấy. Ta phấn khởi hẳn lên.
... Đột nhiên ta có cảm giác bên ngoài trời đã sáng. Ta đang không biết thời gian. A! thời gian chẳng qua là sự đo đếm của con người căn cứ vào ánh sáng, bóng tối, và sinh hoạt. Ta có cần đo đếm không nhỉ? Ta cần phải làm cái gì đó ngay. Hãy bình tâm.Ta tự nhủ. Chuyện gì đến nó sẽ đến. Ta nhớ những chuyến đi xa, lòng nôn nóng thấp thỏi mong mỏi chỗ đến cũng như nơi về. Rốt cuộc, mọi sự đều đã xảy ra như nó phải. Ừ, nhưng cái nôn nóng cũng hay. Rất trẻ, rất trẻ con. Vậy thì cứ tự nhiên nếu lòng còn nôn nóng. Ta nhận ra đã từ lâu ta không còn trẻ nữa, không còn nôn nóng nữa. Cảm giác phấn khởi đang làm ta thấy trẻ lại. Có lẽ vì ta sợ chết trong cái quan tài bằng gỗ này? Giờ đang có tia hy vọng? Ta đảo mắt nhiều lần. Tất cả vẫn đen đặc và yên ắng. Tiếng trái tim khe khẽ trong ngực. Tiếng hơi thở khe khẽ trong mũi.
Mọi vật sinh ra không phải để chết, mà để tồn tại. Tồn tại, có lẽ chính là điểm tối hậu của cõi đời. Đó là quan điểm của ta. Vậy tại sao lại có sự chết và sự phân hủy ? Và ngay bây giờ mi đang vừa sợ chết, vừa hy vọng sống. Mi giải thích đi. A! Có gì khó hiểu đâu. Thế giới đang tồn tại, dù ta có chết trong quan tài dưới lòng đất này. Sự chết và sự phân hủy cùng tồn tại với thế giới. Thôi đừng nhiễu tâm ta. Ta còn thở, còn ý thức, thì ta còn muốn phấn đấu để tồn tại.
Ta khẽ rà chân kiểm soát nắp quan tài. Cú đạp không đủ mạnh, nhưng cũng nâng được một khe. Ta đoán thế vì ta cảm tưởng trong quan tài đã có thêm đất bụi. Ta sắp hắt hơi. Đưa tay giữ mũi rồi thở đều. Cơn hắt hơi qua đi. Ta cũng thấy hơi đoi đói. Có lẽ vì quá lo lắng và quan tâm đến cách tìm sống nên cái đói và lạnh không ồn ào. Ta thầm nuốt chút nước miếng. Giá có một hạt mè, hay một mẩu vụn bánh mì! Ừ, chỉ cần chút siu síu thôi là ta có thể nhấm nháp ngon như bữa cơm chiều nhiều món. Ta nuốt thêm ngụm nước bọt. Thình lình một cơn ói dâng lên làm cay mũi. Ta cố nuốt nó xuống. Nhờ cơn sắp ói này ta mới biết chắc ta không bị say xỉn, không bị đứt phim vì uống rượu quá đà. Ta không nghe mùi rượu. Ta lại càng không hiểu tại sao bị ngất đi rồi bị chôn trong quan tài. Bàn tay tự mò mẫm tìm cái tăm dưới đáy túi quần. Với ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, ta uốn cây tăm và khám phá ra đó là cây tăm cật. Cật bao giờ cũng cứng và khó gẫy. Thật may mắn, ta sẽ dùng được nhiều việc đây. Rà lưỡi khắp hàm răng không thấy gì vướng bẩn, nhưng ta vẫn xỉa răng. Ta thích cái tăm tre nhọn hai đầu rất cứng này. Nó cho ta cảm giác cầm cái đòn sóc tung hoành dẹp tan mọi bất công thô bẩn.
Cất tăm vào túi, ta lại lui cui kiểm soát chỗ đạp ở góc nắp quan tài. Ta mừng vì tìm được vết nứt nhỏ như sợi tóc. Ta lại mừng vì móng tay dài, chưa cắt. Nhưng gỗ vẫn còn chắc. Ta bèn lấy chân kẹp miếng giẻ tay áo ướt nước tiểu dí áp vào khe nứt. Nước ẩm sẽ làm gỗ mềm và nở ra. Nằm gác chân có vẻ nhàn hạ thú vị, nhưng rồi ta bỗng bị đau đầu quá. Cơn nhức bất thần như muốn phá hộp sọ. Ta bưng đầu quằn quại. Nước mắt ứa ra. Ta nhớ chuyện kể về Quán Thế Âm Bồ Tát nhìn thấy vô số chúng sanh khổ, đầu ngài đau đớn vỡ tung ra. Đức Phật A Di Đà thấy vậy mới nhặt những mảnh vỡ ấy ráp thành chín cái đầu. Sau đó Bồ Tát Quán Thế Âm mọc ra ngàn cánh tay, mỗi tay đều có mắt, để có thể cứu độ chúng sinh. Còn ta mới chỉ nhìn thấy mình ta khổ thôi, cớ gì phải đau đầu?
Hãy thở chậm và sâu đi. Ta đưa hơi thở lên đầu đều đặn. Cố gắng đừng bỏ cuộc, đừng ngất đi vào lúc này. Ta nuốt vội ngụm nước mắt đang chực trào ra. Lòng thầm mong Đức Quán Thế Âm  nhìn thấy ta trong lòng gỗ quan tài . 

(còn nữa)
Đọc lại kỳ 

một

hai

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011

Trong Lòng Gỗ Quan Tài - ba

 truyện nhiều kỳ


ba

…Có lẽ ta đã ngất đi không biết bao lâu. Giờ thì ta cảm thấy mệt và muốn tiểu. Ta sẽ phải tiểu thế nào để giữ sạch sẽ không bị khai ? Nước tiểu sẽ rất có ích. Ta nghĩ cách giữ lại số nước tiểu này. Hay là cất nó vào tay áo? Ta dùng răng nhấm nhấm tay áo như loài chuột. Răng ta vốn sắc và chắc. Ta chưa bao giờ phải đến nha sĩ. Thường ta cũng có bàn chải đánh răng trong người. Ta lại có thói quen kỳ cục là luôn luôn để tăm ở túi quần. Ta kiểm soát lại túi quần. Chả có gì cả. Mãi mới thấy còn cây tăm giắt vướng trong khe túi. Ta khoái trá cười: kẻ nào lục soát mà vẫn còn sót một cây tăm. Ta luôn luôn chà rửa răng bằng bàn chải mà không cần thuốc đánh răng. Sau đó dùng tăm. Ồ, chỉ là cách vệ sinh ta học được từ côn trùng. Chúng rất sạch sẽ. Có lần ta đứng xem một con ruồi bậu ở bệ cửa sổ. Ánh nắng soi rất rõ. Nó dùng chân trước lướt qua miệng rồi chải chuốt râu mặt mắt mũi. Đổi chân, và nó dùng chân sau rửa mình. Y hệt các con chim tắm ở vũng nước. Hình như phải rất sạch nó mới phản ứng nhanh nhẹ. Có điều ta vẫn phải xa lánh chúng vì không muốn bị các hóa chất của chúng xâm phạm. Côn trùng luôn tiết ra chất làm mềm thực phẩm để chúng dễ tiêu thụ. Chúng là bậc thầy về vũ khí hóa học đấy. À, ta đã nhấm được một đoạn tay áo. Dùng răng và tay, xé ra rất dễ. Ta nghiêng mình, lấy miếng tay áo hứng nước tiểu. Ta có thói quen bấm mười ngón chân xuống sàn, hơi kiễng người lên. Tư thế này bao giờ cũng làm nước tiểu bắn xa. Đó cũng là bí quyết của người xưa giữ sự điều hòa và tăng sinh lực trong phòng the. Tình cờ bấm chân vào ván ta mới đoán được quan tài này không chắc chắn lắm. Tiểu xong ta gói miếng vải nhét vào một góc. Ta phải làm quen ngay với mùi amoniac để không bị hắt hơi và váng đầu. Muốn làm quen, với người hay vật hoặc môi trường, trước hết là sẵn sàng mở cửa thân tâm mình. Sau là sẵn sàng lãnh đủ. Nhờ cách ấy ta rất ít khi bị dị ứng với hoa cỏ thời tiết, và đám đông. Hồi còn trong quân ngũ, một dạo ở rừng biên giới, rất dễ bị sốt rét vì nước và muỗi. Nước chỉ có dưới hố bom B52. Ta tập uống một ngụm nhỏ ngày đầu để nghe ngóng phòng ngừa. Hôm sau uống nhiều hơn. Rồi ta uống thoải mái không bị gì. Ai làm theo kiểu của ta cũng đều an toàn. Cũng như tiêm chủng vậy thôi. Nhưng điều cần là tâm phải sẵn sàng.
Ta nằm yên suy tính. Nếu quan tài không chắc chắn thì ta có đủ sức phá nó ra không ? Ướm thử ngón chân cái. Tốt nhất nên tập trung sức để đạp một cú thôi.Ta nhớ hồi trẻ chơi thi đi giầy có vớ, chạy qua vũng nước, ai ướt vớ nhiều là thua. Kỹ thuật là dồn toàn sức vào mũi giầy. Khi chạy, phải điều khiển mũi giầy thật nhanh nhẹn chính xác. Mũi giầy vừa chúi xuống nước làm nước vẹt ra, thì phải rút chân lên ngay trước khi nước tụ về làm ướt giầy và thấm vào vớ. Ta muốn áp dụng để thử phá nắp quan tài.
Nhưng chắc ta phải dùng gót thay vì các ngón chân. Lấy khuỷu tay, lưng và mông làm điểm tựa. Khẽ trườn lưng xuống, ta ướm thử hai gót chân lên nắp. Không được. Chật chội quá, ta khó xoay sở. Đành dùng cả bàn chân. Không có khoảng cách đủ để lấy đà. Ta sẽ đẩy hơn là đạp. Cứ thử xem. Kiểm điểm hơi thở. Tốt nhất là đi ba vòng pháp luân thường chuyển. Đây là phương pháp thở ta học được từ một vị sư Tây Tạng. Ta đem hơi thở xuống bàn chân. Cách vận dụng rất giản dị : hít vào bình thường bằng mũi rồi mang lượng không khí từ từ tới nơi muốn đến. Đến rồi thì bỏ đi. Đi qua hậu môn, ở đây có một cơ vòng để co thắt; về bụng rồi theo miệng ra ngoài. Miệng cũng có cơ vòng, tập nó bằng cách nuốt nước miếng. Ta từng tự chữa những nơi đau chốn mỏi trong cơ thể mà chưa bao giờ dùng đến thuốc men từ khi học được phép thở này. Phối hợp với cách ăn uống sẽ tránh được nhiều bệnh. Đã hơn hai mươi năm ta chưa từng phải đi bác sĩ khám. Ấy thế mà bây giờ lại đang bị chôn sống không hiểu lý do! Ta bỗng thấy thương mình. Lại chép miệng. Ta vừa làm hỏng vòng thở. Bắt đầu lại nhé. Hết vòng thở thứ ba, ta dồn toàn lực đẩy một cú chân lên nắp quan tài. Bịich !

(còn nữa)
Đọc lại kỳ 

một

hai


 




Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Trong Lòng Gỗ Quan Tài - hai



 truyện nhiều kỳ

hai

Bây giờ không phải là kỳ cục, mà kỳ lạ. Sao ta lại ở trong quan tài? Quan tài này đã chôn chưa? Thất kinh ta nhổm lên. Nhưng cụng đầu vào vách gỗ. Không ngồi được. Bình tĩnh, ta tự nhủ. Nhớ rằng nếu sợ hãi, người sẽ tiết ra chất adrenaline. Đó là những hoọc-môn giao tiếp (pheromone), nó sẽ tấn công thể tạng từ bên trong, khiến đổ mồ hôi hóa chất, báo cho bên ngoài biết, và lập tức bị tất cả mọi tấn công từ bên ngoài, lâm vào tình trạng trong ngoài thọ địch. Nguy hiểm lắm. Ta vội nhớ lại nhưng điều học được trong kinh sách. Hành giả trên con đường xuyên qua những cảnh giới, những ma sự, điều đầu tiên là phải tự tin, dũng mãnh, không sợ hãi. Hai bàn tay hãy lỏng. Đây là ấn quyết thí-vô-úy. Ta nằm yên lặng làm theo. Hít thở theo pháp luân thường chuyển. Dần dà nghe được tiếng trái tim chậm lại. Nghe được sự tịch mịch chung quanh. Mũi làm việc nhiều hơn. Ta bắt đầu ngửi ra mùi gỗ đất, và phảng phất những mùi phức tạp. Có lẽ ta bị chôn sống vội vã. Không tẩm liệm.
Giờ thì ta chỉ còn trông mong vào khả năng của mũi. Và ta nhận ra không khí không có nhiều. Phải tiết kiệm không khí. Ta nghĩ đến cái bào thai còn sống trong bụng người mẹ đã chết. Bào thai sẽ chỉ được cứu khi được mổ đem ra. Ta sực nhớ đến cái điện thoại di động. Vội lục túi. Rỗng không. Thất vọng quá. Nhưng ta không phải là bào thai. Ta có quá khứ, có khứu giác và nhiều thứ. Ta phải cứu được ta. À, bây giờ phải hết sức dè sẻn không khí. Hãy thả lỏng. Ta ra lệnh cho toàn cơ thể. Mi tuyệt đối không được làm việc cho đến khi có lệnh mới! Nghĩ đến điện thoại di động ta lại nhớ đến báo cáo khoa học về loài ong. Trong không gian có vô số sóng từ trường. Loài ong theo sóng từ trường của hoa để đi lấy mật. Nhưng gần đây sóng của điện thoại di động đã làm nhiễu từ trường nên ong không tìm được hoa. Kết quả là rất nhiều ong đã bay lạc và chết vì đói. Dĩ nhiên trước sau gì ong cũng chết như mọi loài, kể cả người. Nhưng vấn đề là ong đã không làm được việc mai mối của nhiều giống đực và cái, gây tai hại giây chuyền cho cây trái. Thật là bế tắc. Ta chép miệng thở dài. A không được thở dài. Phải tiết kiệm mọi năng lượng. Nhiễu sóng cũng như nhiễu tâm thôi. Từ từ rồi sẽ tìm ra giải pháp.
Ta nhớ thuở thiếu niên từng tập hành xác: nằm bất động trong bóng tối dưới gầm giường. Vài con gián bò qua thân thể. Có cả con chuột đến gặm gặm ngón chân. Ta vẫn cố không nhúc nhích. Bây giờ áp dụng cách thức ấy vào hoàn cảnh này thật dễ dàng. Ta bắt đầu ngửi thấy không khí ở trong gỗ. Gỗ có nhiều khe li ti. Ta nhớ những thớ gỗ khi đẽo gọt tượng. Chỉ cần lách mũi dao hay mũi đục là có thể tách chúng ra hoặc luồn vào nhẹ nhàng. Ta lại nhớ đến Trang Tử kể chuyện người mổ trâu, trải bao nhiêu năm mà con dao vẫn nguyên vẹn, không bị cùn. Ấy là nghệ thuật tìm khoảng trống. Ta nhớ ra rồi: khoảng trống chính là nghệ thuật điêu khắc của Archipenko. Ông tình cờ để hai lọ hoa cạnh nhau, và tình cờ nhìn thấy một lọ hoa khác không có mặt, đứng ngay giữa hai lọ hoa kia. Hì hì! Thế là lại rơi vào không tánh của Phật giáo. Nhưng ta thực tình thích cả ba nhà điêu khắc trẻ thời đó đã trao đổi giúp đỡ nhau: Brencusi người Lỗ, Archipenko người Nga, và Modigliani người Ý. Riêng Modigliani vẽ nhiều hơn làm tượng, nhưng tượng của anh ta rất đặc biệt, như mới lấy từ đất ra. Cả ba anh chàng này ở ngay bên cạnh thiên tài Rodin, nhưng tuyệt đối xa lánh Rodin. Thật là tuyệt. Còn ta …
Ta khẽ nghiêng mũi áp vào vách gỗ bên trái. Mùi gỗ này cũ và khô. Loại gỗ tạp đã trải qua nhiều nắng. Bất ngờ có tiếng rích rắc rất nhỏ trong thớ gỗ. Có lẽ bình thường ta không thể nghe được. Nó nhỏ đến nỗi nếu ta thở nhanh hơn một chút là mất tăm. Nhưng dù sao thì âm thanh đó cũng không còn. Ta gần như nín thở rất lâu để chờ nghe một tiếng nữa. Nó có một tín hiệu mà ta chưa nhận biết. Bình thường gỗ hay vặn vẹo vì khô đi. Nó kêu những tiếng trắc. Còn tiếng vừa rồi hình như ngả sang bình. Âm ngang của nó lan đến môi ta. Nếu đúng như ta đoán thì sẽ có nước ngấm vào. Và nước chắc rất ít, chỉ như của một giọt sương. Ta đang ở thành phố San Francisco đầu tháng mười một. Cũng còn có sương bụi về đêm. Thôi đừng lẩn thẩn lang bang loay hoay xác định thời gian với không gian nữa. Ừ thì cứ cho là cỗ quan tài này đang vào đêm hay về sáng. Rồi sao ? Ta bị mất hướng. Yên ắng ngửi trở lại. Ta khẽ quay mũi sang bên phải. Có một chút tín hiệu mơ hồ. Có thêm chút không khí mơ hồ. Ta nghĩ đến con ốc sên. Loài này có tới bốn cái mũi. Xương nó lại ở bên ngoài thịt. Cừ thật. Nó chỉ sinh hoạt bằng mũi thôi. Xương ta thì ở bên trong, thịt ở bên ngoài, và chỉ có một cái mũi . Ta thất sách hơn nó nhiều. Ta lại nhớ đến chuyện Cái Mũi của Nikolai Gogol, một truyện ngắn tuyệt diệu. Nhưng tuyệt diệu nhất vẫn là chuyện của Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị. Ông kể một vị sư mù, có khả năng đọc bằng mũi. Cứ đốt bài văn lên, vị sư ngửi khói tro mà hiểu hết. Lại còn phê phán rất sáng suốt. Kỳ lạ thế. Ta nửa tin nửa ngờ. Cái mũi là phần nhô cao nhất của cơ thể người. Nó có nhiệm vụ giao tiếp với thế giới. Nhất là thế giới tình ái. Mũi có tới hơn 50 triệu tế bào và đầu giây thần kinh để thông tin. Hình như ta lại nhận được thêm tín hiệu. Mũi ta ngửi dọc theo lườn gỗ phải. Có vài chỗ ta biết chắc không bị đất lấp kín. Do đó có nhiều dưỡng khí. Ta khe khẽ trườn uốn, đưa mũi như con sên, chậm chạp ăn nuốt không khí. Ta vẫn thích mở mắt ra, dù không nhìn thấy gì. Ở khoang cuối quan tài có nhiều dưỡng khí hơn. Ta đoán là đất bên ngoài ít, hoặc xốp. Ta kiểm soát các túi mặc nhiều lần nữa. Ta cần bộ chìa khóa xe chẳng hạn. Nó sẽ giúp ta cạy nạy các thứ. Nhưng tuyệt đối không có gì. Ta nghĩ chắc bộ quần áo này ta đã mặc trước lúc bị ngất đi, và ai đó bỏ ta vào quan tài đem chôn. Chiếc áo khoác màu nâu, chiếc áo tay dài hiệu Kuhl màu gạch thẫm ta chọn mua  ở REI năm ngoái. Cái quần đen cùng hiệu. Ta đang phục hồi trí nhớ. Cắc cớ nhất là ta ngất đi lúc nào và tại sao. Ta bị đột ngột biến mất ? Mọi người đã biết ta bị mất tích chưa ? Chợt thấy ù tai. Dấu hiệu thiếu dưỡng khí. Thôi đừng nghĩ. Hãy tập trung vào hơi thở…

(còn nữa)
Đọc lại kỳ 

một

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

Trong Lòng Gỗ Quan Tài - một




truyện nhiều kỳ


một

Ta thức giấc. Có lẽ đã là một giấc ngủ dài. Ta không nhớ gì trong giấc ngủ. Lẽ ra ta phải nhớ gì mới đúng, vì khi ngủ ai cũng có hơn 20% mơ. Chắc tại ta nằm lệch từ trường của trái đất. Trên nguyên tắc, nếu nằm thuận theo hướng bắc - nam, người ta sẽ nhớ nhiều giấc mơ hơn. Giấc mơ thường giải quyết nhiều bế tắc của đời sống. Mơ cũng báo trước vài sự kiện nếu biết lý giải. Vậy coi như ta không mơ. Ta vẫn nằm yên. Nhớ xem bắt đầu ngủ từ lúc nào. Tệ thật. Ta chẳng nhớ gì cả. Ta khẽ ngả bàn chân phải sang bên phải. Đụng tường. Ta khẽ nhích cùi chõ bên phải sang bên phải. Đụng tường. À ra ta đang nằm sát vách. Vậy là ta không ngủ ở nhà. Giường của ta không kê sát vách. Ta vội mở mắt. Tối hù. Tối quá. Ta vẫn nằm yên. Nhắm mắt lại. Cố nhớ xem mình ở đâu. Ta bật cười. Không biết mình ở đâu, ngủ khi nào, thì đúng là say xỉn. Thường gọi là đứt phim. Ta đã từng bị đứt phim vài lần. Chuyện này chỉ xảy ra trong thế giới của những người uống rượu, và uống nhiều. Một lần đơn vị ta về đóng quân dưỡng sức ở Giồng Ông Tố, bên kia bến đò Thủ Thiêm, sát ngay Sài Gòn. Vì được xả hơi, ta nhậu với đồng đội xả láng. Thế là đứt phim. Ta không biết tại sao ta lại nằm dưới đất. Bên trên là cái võng dù. Một lần khác ở Nha Trang. Ta đang là thương phế binh chờ giải ngũ. Bất ngờ ta gặp bạn cũ cùng đơn vị. Bạn ta lại là nhà thơ, thân thiết. Mừng nhau không thể nào không xả láng. Lại đứt phim. Ta không nhớ bạn ta trả tiền bia hay ta trả. Ta cũng không nhớ bạn ta từ biệt như thế nào. Ta chỉ biết mình thức giấc trên căn gác của mình. Thế thì ta cũng biết đi về leo lên gác ngủ. Kể ra vẫn thú vị. Nhưng từ ngày sang Mỹ, đã 36 năm qua ta chưa đứt phim. Đây có lẽ là lần đầu chăng? Ta mỉm cười mở mắt ra. Tối hù. Tối quá. Ta không tin có một thứ tối đen như vậy. Mắt ta vốn rất tốt. Mẹ ta từng kể hồi mới đẻ, ba ngày sau ta mới mở mắt. Kỳ cục thế. Nhưng ta có một ông bác họ là sư trụ trì một ngôi chùa ở Hà Nội, nói với cha ta là ta có đôi-mắt-thần-giáng-sinh. Lúc đó cha ta còn không biết ta đang được sinh ra ở Thái Bình. Kỳ cục thế.
Nhưng mà dù có đôi mắt thần chăng nữa, bây giờ ta cũng không nhìn thấy gì. Ta chưa bao giờ biết có một sự tối đen thế này. Ta khẽ đưa một bàn tay lên mắt. Không thấy gì cả. Hay là ta bị mù ? Hơi lo lắng, ta chớp chớp. Cảm nhận được đôi mắt còn tốt. Không phải mù. Sự đen đặc kỳ quặc vây bủa ta. Ta khẽ đưa bàn chân trái và khuỷu tay trái sang bên trái. Đụng vách. Thế là ta biết đang bị kẹt giữa hai bức vách mà khoảng cách chỉ vừa cho ta nằm. Thế là thế nào? Ta vẫn nằm yên. Cố nhớ. Những lần đứt phim trước, ta vẫn nhớ được khúc dạo đầu. Bây giờ, tuyệt nhiên không nhớ gì cả. Kỳ cục. Ta đưa cả hai tay sờ mò hai bên vách lên phía trên. Bên trên cũng lại là vách. Rồi ta khám phá ra chung quanh trên dưới đều là vách gỗ. Thôi rồi, ta đang nằm trong một cái hòm gỗ. Một cỗ quan tài.

(còn nữa)

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

những bài thơ pha vào rượu




hoa

hoa 
ồ hoa
mặt đất nở bừng ta
ta 
ồ ta
giữa trời một đóa hoa


ta đi

(kìa xem mưa thấm qua tường
bao nhiêu mạch máu con đường ta đi)

ta đi trên mênh mông
hoa mưa lung linh đáy mắt
ta đi trên mênh mông
thênh thang những lá cây rừng ướt át
ta đi 
ồ ta đi 


thuốc lá

thuốc lá 
ồ thuốc lá ơi
mi đốt trên môi ta 
những giấc mơ
những cánh rừng
và ta nhả ra vô lượng mây


thời gian

này thời gian
mi thổi qua khắp cõi miền dâu bể
đêm qua 
ta mơ thấy mi về
hôn lên ngực ta bằng đôi môi lạnh giá
rồi mi cho ta một chai rượu không nhãn
ta thầm gọi
biển ơi
 


Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

chúa jesus, và nietzsche


gửi nguyễn xuân hữu

bánh mì làm bằng lúa mạch
rượu vang làm bằng nho tươi
con người làm bằng hồn phách
tôi khóc dưới chân chúa jesus
liếm máu ông thay bữa trưa ở trên đồi
nietzsche nói đúng
chẳng làm gì có bài giảng ở trên núi
kinh không chữ
kinh không chữ
tôi ngồi trong bóng đêm
một mình
uống rượu với đậu phụ nướng
nhìn bức tượng phật bằng gỗ làm chưa xong


tvat  121111

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

trên đường đồi



trên đường đồi lạnh giá
gió mùa thu thổi con nhện đung đưa
lời của gió say sưa qua những lá 
mà lá gan anh ngơ ngác úa vàng
bàn tay anh vẫn thơm mùi lúa
nhưng cánh đồng anh ai vừa gặt hết bông
giòng sông anh sông xưa không chảy nữa
hai bàn chân ngớ ngẩn đứng ven đời


 tvat 111111

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Nguyễn Du : Trăng, và Kiều



Trong suốt ba ngàn hai trăm năm mươi bốn vần sáu tám Nguyễn Du đã dùng đến bẩy mươi chữ "trăng" trong Truyện Kiều. Và trong bẩy lần Kiều động nỗi đau thương nhung nhớ, Nguyễn Du cũng đem vầng trăng ra diễn tả. Mỗi lần nhìn thấy trăng là mỗi lần Kiều vừa nao nức mơ màng vừa đau đớn thẹn thùng. Như giấc mộng chập chùng – như đôi cánh thời gian, vầng trăng sáng chao lượn khắp một không- gian- kiều. Chỉ thấy trăng - cái vầng trăng ấy vỗ cánh kêu một tiếng tang thương rồi vô tận. Mộng xế hay trăng già. Ngoài ra là cỏ xanh.
Ôi có phải thi sĩ là kẻ đầu tiên khám phá ra vầng trăng, và hồng nhan là người đầu tiên chết trong vầng trăng ấy ? Hay trăng là kẻ đầu tiên khám phá ra thi sĩ, và trăng sẽ chết trong cõi hồng quần ? Thế thì ai đã bày ra màu dang dở - ai đã khoác lên vai áo đoạn trường ?
Ôi có phải chợt sinh ra đã lạc bước vào cõi mộng - gặp trăng rồi thì mộng trở thiên thu?
Lỡ từ lạc bước bước ra (Nguyễn Du)
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn (Bùi Giáng)
tấm thân đã liệu từ nhà liệu đi thì trăng kia vẫn cứ mọc, và lòng kia vẫn cứ trôi mãi vào trăng - như một chiếc thuyền - như một cánh hoa - một giòng tiểu khê - trôi mãi về cuối trời - trôi mãi vào cõi người ta - trôi mài vào một bản-đàn-trăng-nhập
Trăng nhập vào đàn - trăng nhập vào Kiều hay trăng nhập vào Nguyễn Du để cả một đời người cứ tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Hỡi ơi hình như đã từ lâu lắm vầng trăng vằng vặc giữa trời đã khuôn thiêng trên mái tóc tạ từ - như một con chim phiêu dạt - vầng trăng ấy ngậm trái tim Kiều bay dãi dầu dĩ vãng - ngậm trái tim người cha già tóc trắng bay mãi vào sử lịch tồn sinh mà đôi chân của cuộc lữ còn lãng đãng bỏ lại trên trần gian chút bụi hồng rêu phủ !
Trước và sau trong nỗi khép và mở vô vàn chỉ là một bản-đàn-trăng-nhập từ một cỗi mộng xa xăm đổ về hai bến hẹn.
Nguyễn Du đã có lần đứng trên ngọn Hồng Lĩnh nhìn trăng mà thở dài - nhắp chén rượu đời để nghe vầng trăng ứa chan những máu. Ông viết gửi cho bạn:
Đêm nay trăng sáng núi Hồng
Trường An ngìn dặm lòng tôi não nùng
( bài Ký Hữu)
Và gửi cho Từ Hải:
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đà cao bằng đầu.
Nguyễn Du đã sống trong một thời máu lửa - một thời chỉ toàn những cuộc chém giết kinh hồn, giữa Tây Sơn và nhà Lê, giữa Tây Sơn và nhà Thanh, giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn. Mười sáu năm binh lửa diễn ra khắp quê hương là mười sáu năm Nguyễn Du sống trong gió bụi ê chề, hết mười năm ăn nhờ ở đậu nơi Thái Bình quê vợ, là những năm còm cõi lê chân khắp chín mươi chín ngọn núi Hồng quê cha. Trong cõi người ta trải ra không hết những đoạn trường.
Đức Phật  đã nhận ra đời là bể khổ, và Nguyễn Du thì nghe ra bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay. Ông xót xa: những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nhưng mà hùng tâm tóc bạc đứng ngồi thở than,(bài Khai Song) chỉ ước mơ gốc tùng một bóng vô ngần thảnh thơi.(bài Sơn Thôn) Mà trớ trêu thay, định mạng đã đóng đinh lên thập tự hồng, tấm thân vẫn phải lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Ông đã khóc với đời, khóc cho đời, và khóc với mình, khóc cho mình.
Trong hết thi nghiệp của Nguyễn Du người ta chỉ nghe thấy những khúc đàn não nuột - họa chăng ở một lần cuối khi Kiều gẩy cho Kim Trọng nghe mới thấy đầm ấm dương hòa nhưng đó chỉ là hồ điệp hay là trang sinh - và ngay cả hỡi ơi chung cuộc thì cũng đã trải qua một cuộc bể dâu mất rồi.
                                        
*

Vầng trăng từ độ lên ngôi, khách má hồng đã nghe ra một nỗi niềm cay đắng như tiếng thơ đổ hồi trong phế phủ. Trăng đã sáng lên mọi mép miền dâu bể - thơ đã cất lên khắp cõi mộng ban sơ. Trăng và Thơ cùng bay vào miên viễn - tiếng thở dài còn đồng vọng trên bình nguyên xanh cỏ rợn chân trời - trong trời thu ngất tạnh bóng xiêm y.
Ôi có phải cũng là từ khi trăng là nguyệt, kinh là kỳ từ châu quận tân toan (Bùi Giáng) mà khúc bạc mệnh đã lên đường trăng soi, mà khách hồng quần đã
Mịt mù dặm cát đồi cây
Tiếng gà điếm nguyệt dấu giầy cầu sương
Trăng đã đến với Kiều từ sau cuộc hội đạp thanh, và hiện ra ngay trong buổi tối trở về trướng hoa, tim còn đập má còn hồng
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân
Kiều một mình lặng ngắm bóng trăng - lặng ngắm cảnh trăng soi. Tâm thức luyến ái đã quẫy lên khi không gian dìu dặt, để rồi má bỗng hồng thêm, tim bỗng run thêm - run như tờ giấy mới, cùng với vầng trăng trôi vào cõi mộng - một cõi mộng điêu linh - một mùa trăng về tảo mộ - một mùa trăng soi những đoạn trường xa xăm - những phương trời thăm thẳm những ngày ngày đăm đăm.
Thế là hốt nhiên một cuộc lữ phơi ra trong trăng tà - để khách má hồng lẽo đẽo giữa cuộc chơi
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Trông vời gạt lệ phân tay
Phương trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm

Và ai đó trong một phiến đá bầm đầu buổi hoàng hôn, cuối bữa hôn hoàng đã khóc trên cuộc chơi này - một cuộc chơi rất mực - cuộc say đầy tháng cuộc cười thâu đêm - ấy nó chính là cuộc chiêm bao theo cuộc trăng đáy nước. Ôi vầng trăng ấy đã bủa vây chút hồng quần - đã xô giòng tiểu khê chẩy qua cầu nho nhỏ - xô má hồng vào chốn thanh lâu - xô hồng nhan vào cõi đoạn trường - xô bản đàn nhỏ máu ngón tay …

*

Thúy Kiều đã bước vào cuộc chơi trong một mùa trăng
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Khi ước nguyện với Kim Trọng, rồi chàng chợt phải ra đi lo tang lễ ông chú, thì Kiều cũng chợt phải ra đi vì đình tụng của cha già. Nhị đào đã bị Mã Giám Sinh bẻ vào một đêm trăng ngày ấy. Tới Lâm Truy gặp mụ trùm lầu xanh là Tú Bà cũng vẫn là mùa trăng. (Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi).
Những ngày ở lầu Ngưng Bích, lầu máu đọng. ( Trong cuốn chú giải Kiều của Chiêm Vân Thị kể có viên quan nọ ở phương xa tự tử chết. Máu chảy đọng thành vũng. Có người đồng hương gói máu ấy đem về cho thân nhân người quá cố. Đi mất ba năm, khi mở ra thì máu biến thành ngọc bích.) Đấy là tên theo điển tích, còn thực tế, chính máu của Kiều đã chảy ra và đọng lại ở đó. Để rồi chỉ còn vầng trăng là tri kỷ.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Trăng thôi thúc quá, Kiều cũng liều nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu, trốn khỏi lầu Ngưng Bích với Sở Khanh (là người trong kế hoạch cạm bẫy của Tú Bà). Cuộc chạy trốn lần đầu tiên cái định mạng khủng khiếp này diễn ra vào một đêm trăng muộn (đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành) và đã thất bại khi trăng từ từ lặn (gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương).
Thế là thôi, thế là đành, lấy thân mà trả nợ đời cho xong! Kiều bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn đến nước phải lạy van mà hứa một lời đau đớn
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ đây xin chừa!
Nhưng lần ấy trăng bắt đầu lặn bẵng đi - không nghe nói trong những ngày từ đêm hai mươi mốt đến mùa trăng tháng sau Kiều làm gì - chỉ biết khi trăng tháng sau vừa tròn thì Kiều bắt đầu cuộc đời kỹ nữ với công phu dạy dỗ của Tú Bà
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong
Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò
Cũng có thể nguyệt sáng gương trong là ý nói Kiều bị đau vì trận đòn phải tĩnh dưỡng đến nay mới hồi phục dung quang. Nhưng dẫu sao thì trăng cũng đổ hồi.
Trăng đổ trên đầu xanh hay tóc trắng – trăng ôm người, người ôm trăng cùng khóc giữa mê cung.
Có người chiết tự câu một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời, trong lần thứ năm diễn tả nỗi thương nhớ của Kiều là chữ Tâm  chỉ Thúc Kỳ Tâm (Thúc Sinh).
Nhưng đến đây thì vầng trăng thật đã quá lắm rồi - đã là cái tâm của Kiều. Cái vầng trăng ấy, con tim ấy, dù là sáng vằng vặc đi chăng nữa thì cũng bị cuốn trôi đi - trôi mãi vào một cõi hồng trần.
Trong bài  “đạo ý”, Nguyễn Du đã gửi gắm tâm sự, muốn giữ một lòng bát ngát trăng trong. Nơi một chỗ đứng nào đó, Nguyễn Du  đã thấy trăng như là tất mệnh - là trái tim dễ đau của thi sĩ - Trăng như là bến đợi - là chốn hẹn - là nỗi nhớ niềm đau - là tất cả mọi ước mơ - và cũng cả những đoạn trường.

*                  
Trong ba lần gửi thân nơi thảo am, lấy câu kinh tiếng kệ, và tấm áo nâu sòng để gần rừng tía để xa bụi hồng, nhưng cả ba lần trăng đều đến tận thiền phòng níu kéo Kiều lên đường nhập cuộc chơi tiếp nối. Ba lần ni cô Thúy Kiều (hay Trạc Tuyền) đều đã phá giới. Lần thứ nhất trăng gọi Kiều vào nửa đêm, ni cô nghe theo tiếng gọi của trăng đã cuống lên, đánh cắp cả chuông vàng khánh ngọc trong chùa, rồi leo tường băng đi theo trăng.
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân
Bên mình giắt để phòng thân
Lần nghe canh đã một phần trống ba
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng tà về tây
Lần ấy Kiều sợ quá
Canh khuya thân gái dặm trường
Phần e đường sá phần thương dãi dầu
Kiều đi mãi tới sáng bạch cũng vẫn bơ vơ nào đã biết đâu là nhà. Thế nên Kiều đánh liều đến tu ở một ngôi chùa khác. Trăng đã mớm cho Kiều nói dối – trăng đã giắt lối cho Kiều phá giới - cho nên lần tu thứ hai này rất là gay cấn. Những tưởng cứ  “sớm khuya lá bối phướn mây, ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày điểm sương” là đã “gửi thân được chốn am mây” rồi. Nhưng mà trăng vẫn sáng - trăng đưa lối như một bóng ma - trăng đưa đường như một con quỉ - chẳng bao lâu Kiều lại bị bước vào chốn đoạn trường.
Nguyệt là Tâm, nhưng có phải tâm Kiều muốn thế? Thưa không. Cây muốn lăng mà gió chẳng muốn ngừng. Tâm không muốn, nhưng thân lại bị đắm trong bùn.
Tiếc cho nước đã đánh phèn
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần
Sao thế? Xin thưa
Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chửa thôi
Thôi thì thôi
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều má phấn cho rồi ngày xanh
Nguyệt là tâm, và nguyệt ở trên trời
Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Cho nên trăng hay tâm cũng là trời. Trời hay tất mệnh - trời hay nghiệp số đào hoa cũng thế. Hỡi ơi
Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi
Trong cuộc đời, khi ra làm quan với nhà Nguyễn, Nguyễn Du đã ba lần xin treo ấn từ quan, nhưng lần nào cũng chẳng đặng đừng. Trăng đã buộc như duyên tình đã buộc.
Nguyễn Du đã bày tỏ thuyết định mệnh và nghiệp báo trong Truyện Kiều. Và chính cuộc đời ông đã sống chết với một vầng trăng. Ông yêu định mệnh, nhưng vẫn muốn chống lại định mệnh, và nhận chịu mọi hệ quả của hành động phản kháng này.
Vầng trăng của đời Kiều, hay của Nguyễn Du là một vầng trăng duỗi dài hai bến hẹn
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Ý thức về định mệnh - cô đơn trong một chỗ đợi chờ - Nguyễn Du vẫn muốn hành động - muốn phiêu lưu - muốn đến một phương trời kia tạo dựng một cõi miền.
Đã có rất nhiều câu như Kim Trọng nói với Kiều :”xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Hay Tam Hợp đạo cô nói với Giác Duyên:
Sư rằng:”phúc họa đạo trời
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta
Và ngay phần đóng lại Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã viết
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Nhưng đó lại là một cõi miền dâu bể khác - ở đây chỉ nói về một vầng trăng mà Kiều đã phó thác. Tuy nhiên Kiều cũng đã và đang ở trên giòng sinh thức này, kiều ôm giữ một vầng trăng - khóc trong vầng trăng - đi trong vầng trăng - hát trong vầng trăng - và chết trong vầng trăng.

*

Cái ngày gặp Từ Hải là ngày Kiều gặp một bến bờ mới - ngày trăng thật sự lên ngôi - và Kiều tin rằng sẽ giã từ tất cả để chỉ khoác áo vàng đi trong vầng trăng - giã biệt cung đàn - giã biệt quê hương. Trong suốt cuộc đời, Kiều đã đánh đàn cho Kim Trọng nghe hai lần, đánh cho Mã Giám Sinh nghe, đánh một mình nơi lầu xanh, đánh cho Hoạn Thư và Thúc Sinh nghe, đánh trong đêm khao quân của Hồ Tôn Hiến, hoặc còn đánh nhiều lần đâu đó; nhưng tuyệt nhiên không đánh đàn cho Từ Hải nghe. Sao thế ? Xin thưa: đó là một điều bí ẩn.
Bây giờ giữa một mùa trăng sáng, giữa một giòng sông sâu, Kiều phải quyết định đời mình sớm hơn. Nàng bèn ôm lấy trăng nước sông Tiền Đường. Nhưng trước khi nhắm mắt, nàng vẫn còn thấy vầng trăng sáng - sáng cả trong tâm thức Kiều, khiến lòng nàng tan nát tân toan
Một mình cay đắng trăm đường
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi
Vầng trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Đêm trăng trải mấy đoạn trường, mà giòng sông thì dài như mộng - nước động và trăng xô - lô nhô dĩ vãng. Mãi! Đêm vẫn bất động - chỉ có yên lung hàn thủy nguyệt lung sa (Đỗ Mục)- và chỉ có ta là tâm thức quằn quại của Thúy Kiều dưới khoang thuyền định mạng. Kìa, khuôn mặt ai hay là trăng ảnh? - hay là máu của một mùa thu xưa - hay là mưa của một ngày xuân rụng? Vô số mặt trăng chợt ùa lên như chim nhạn. Vô số mặt trăng chợt sa xuống nước như những cánh hoa rơi. Ai đấy? Người xưa? Hay là người trong mộng. Hay là người trong mộ. Hay là ta giữa một cõi ta bà. Hay là trái tim - ôi trái tim sũng mộng - trái tim của một thời để yêu và một thời để chết.(Erich Maria Remarque) Chạy đi. Chạy trên những chiếc lá khô. Chạy trên những xác người. Chạy trên vô số những bàn tay - chạy trên rừng dâu - chạy trong vầng trăng sáng - chạy trên giòng sông sâu. Chạy trên đâu - chạy đi đâu - chạy đến đâu?
Thôi thì một thác cho rồi
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông
Đoạn trường đang mở ra hay khép lại mà khắp không gian chợt hối hả vô cùng. Kiều chết rồi trăng cũng chết theo.
Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn
Một giòng sông vồn vã động chân trời (bùi giáng)

Trăng nằm xuống hay trăng vừa thoát chạy thì tấm lòng Kiều vẫn dang dở giữa mênh mông. Trăng giữa trời và trăng đáy nước. Phải chăng giấc mộng Trang Châu vừa trỗi dậy, và một thưở ai kia chàng thi sĩ ôm trăng cười say dĩ vãng đã cất cánh bay về cõi hư hoang. Và phải chăng bản đàn trăng nhập đã nhập lại vào trăng trong một kiếp ngậm ngùi.
Tóc trắng phau phau chợt bay lên gió lộng. Và đôi cánh thơ chở đầy mây trắng cũng chợt vun vút vào vầng trăng.
Hình như không gian hốt nhiên vừa ngất tạnh. Ai đã vừa quét sạch một con đường lá me bừa bãi rác? Ai đã vừa thu vén chợ chiều qua? Ai đã lau đi màu chiêm bao vừa mới đổ? Ai đã dứt bụi hồng chiêm bao đi về nẻo đó? Ai ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi?(Tản Đà) Mà ai biết ai là người khóc vầng trăng thuở ấy!
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Trong cõi mộng điêu tàn - cuộc chơi còn lẩn khuất.

 *

Mái tóc trắng của Nguyễn Du phải chăng là mái tóc của một vầng trăng bạc - tóc của bao mùa thu chết - tóc của bao mùa đông qua. Ôi tóc trắng phau phau mà còn gửi thân nơi nhà người - còn thơ thẩn cuối mùa trăng - còn lẽo đẽo giữa bụi hồng. Tóc trắng bay dưới trời trăng huyễn mộng - tóc trắng bay vương vấn cồn dâu - tóc xanh chìm xuống giòng sâu - mùa thu trở lá tăm mù cánh chim.
Hình như ngập ngừng lắm mẹ ơi ! Cả thế giới bỗng vô cùng dang dở. Trời xô mây đẩy mộng cuối con đường.
Tóc trắng khóc mùa thu con khóc võ vàng. Đường đã lên đồi con vùng dãy dụa. Mẹ bỗng đi như nước bỗng lìa ngàn. Trăng đã xa như ngấn nước vàng - tóc bạc trắng đến vô vàn mây trắng.
Mẹ ơi đầu xuân con băng mặt nhựt
Lượm giẻ màu xanh lau nhẹ chiêm bao ( Phạm Công Thiện)
Phải chăng chủ đề của thi ca là cuộc lên đường qui hồi cố quận. Giòng lục bát là một giòng thơ có khả năng bát ngát trên lối về
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Chị về cho mẹ ra đi - chị đi cho mẹ đi về dưới trăng
Mẹ về đứng ở đầu sân
Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi (Bùi Giáng)

Đi và về. Trong một tiếng tang thương trải vô lượng đại dương thế giới. Về và đi trong đôi cánh của vầng trăng và giòng sông thủy triều. Lục bát Nguyễn Du đã tạo nên nhịp tư huyền diệu - nhịp của tứ tượng - nhịp của thiên trì hơi thở.

Hình như vầng trăng vẫn còn sáng lắm - sáng mênh mông trong một đêm mênh mông - sáng vàng một giòng sông sóng vỗ - sáng trắng một giấc mộng chưa tan - mà ô hay không phải trăng vừa mới chết đó sao ? Trăng vừa gieo theo một cánh hồng ? Trăng vừa đeo theo một trái tim đau ?
Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Phải chăng trăng là một ẩn ngữ ? Và đâu là chân diện mục của vầng trăng ?
Im lặng. Bởi vì :
Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai. Khách hồng quần đã tịnh khẩu? Ai có đủ tư cách đáp cho nàng? Nguyễn Du ư? Người ấy đang ngồi bên song cửa yên lặng nhắp chén rượu đời, mắt nheo nheo nhìn những cánh hoa rơi lả tả trên tấm thảm xanh ngoài trời thu ngất tạnh.
Đạm Tiên ư? Một hồn ma bóng quế - một mộ trăng kín cỏ mục lối về - ba lần cô đến từ cõi mộng xa khơi rồi bỏ đi cũng chưa tròn mộng – dấu cô chỉ là một chút hương thừa - một chút rêu xanh - chỉ còn một chút trăng vằng vặc - một chòm sao tâm, và dăm ba hàng mây trắng...
Nhưng mà vầng trăng tuy còn đấy - tuy còn mãi cũng vô ngôn.


tường vũ anh thy San Francisco 1980- trích trong THI ĐIỆP NGUYỄN DU 1982


Những bài trong Thi Diệp Nguyễn Du đã đăng trên blog này:

Nguyễn Du: lỡ từ lạc bước…

lời thêm: đọc lại những bài này viết từ 31 năm trước, có nhiều đoạn tôi không hiểu, nhưng vì tôn trọng nguyên tác tôi vẫn đánh máy nguyên si. Tôi nghĩ chắc lúc viết, tác giả hẳn đang lên đồng! Tôi  sửa lỗi chính tả và lỗi đánh máy lúc ấy chưa có computer, nhiều đoạn chồng chéo cả lên nhau. Tôi chỉ mới biết đánh máy vào computer khoảng một năm nay. Vậy để nói lại cho rõ: những chữ in nghiêng (italic) trong bài thơ Nguyễn Du hoặc những thành ngữ, những câu quen thuộc trong văn chương, ai cũng đã biết nên không ghi chú.