dấu chấm của cuộc chiến : 30-4-1975
Tôi
đi bên cạnh người đại tá. Con đường vắng, đầy hoa lá. Rừng núi Santa
Cruz tràn ngập mùi ngái nồng của thiên nhiên đang bật nở. Gió xuân lành
lạnh, dù nắng rất huy hoàng ở trên cao.
Chúng
tôi ăn mặc chỉnh tề, đủ ấm, và đều đội mũ. Tôi bỏ hai tay trong túi,
lững thững. Người đại tá bâng quơ ngắt những đóa hoa bên đường. Dường
như mỗi đóa hoa ông đều đưa lên ngửi rất tận tình. Trong
con-mắt-không-còn-trong của ông là một nỗi đắm đuối. Gờn gợn như những
nếp nhăn ở hai bên thái dương.
- Không hiểu sao tôi bỗng nhớ mấy đứa cháu quá anh ạ.
Tiếng
ông trầm như lôi tôi về một thời rất xa ở miền Bắc. Tôi cũng ngắt một
nụ hoa. Không ngửi. Chỉ nhìn rất sâu vào cánh và nhị. Tôi nói vu vơ đáp
lời ông:
- Trẻ con mới thật là những nụ hoa.
- Thế còn đàn bà? Ông hỏi đùa.
- Đàn bà là những cái lá. Tôi cười lớn.
Ông
cười theo. Tôi nghe được tiếng vang của giọng cười tôi lớn quá, át cả
tiếng cười rất ấm của ông. Tôi vội ngậm. Ngượng ngùng. Chúng tôi dừng
bước giữa khoảng trời đất quang đãng. Cỏ xanh mời chúng tôi ngồi xuống.
Đã quá trưa, sắp chiều. Tôi nói như ngâm nga:
- Chẳng phải hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ông
ngả lưng trên cỏ. Co cánh tay làm gối. Nắng không chói nên mắt ông mở
lớn. Khuôn mặt thư giãn. Tôi ngồi gần quá nên nhìn được những đường rãnh
li ti chằng chịt trên da mặt ông. Mũi bầu bĩnh. Lông bên trong sợi nâu
sợi trắng. Nhân trung sâu dài vừa phải. Cánh môi không đỏ. Nếu ông để
râu thì sẽ thưa và không đẹp. Chân râu lấp lánh. Chắc ông sẽ thọ lắm.
Trong một thoáng, tôi nghe được cả người ông đang thở hoang mang. Và một
mùi vị lạ lùng, vừa thân vừa sơ. Mùi ấy từ thân thể ông thoang thoảng
tỏa ra. Mùi của rừng, của núi, của đồng đất. Cộng với mùi rơm rạ củi gỗ
pha lẫn nắng mưa. Hốt nhiên cả cánh đồng Miên-Việt ùa về theo ký ức. Đại
đội chia làm ba, tiến vào một ngôi làng. Tiếng súng nổ chát chúa. Tôi
không thấy khói. Chỉ ngửi thấy mùi chiến tranh. Người lính bên tôi kêu
rú. Và ngã chúi. Máu vọt ra rất nhanh. Trong nhấp nháy đã đỏ thắm đầu và
mặt hắn. Màng óc tôi như ống kính ghi chụp rất rõ khuôn mặt mếu máo máu
đỏ. Màu da tái xanh rồi tím ngắt. Và điều không thể ngờ là, ngay lúc
đó, dù tim tôi đang đập loạn, dù tai mắt tôi đang căng cứng đối phó với
sự chết lảng vảng, tôi vẫn nghĩ đến câu thơ của Đoàn Phú Tứ màu thời gian không xanh, màu thời gian tím ngắt.
Và gật gù một mình. Tôi kinh dị nhìn tôi. Nhìn xác thân người lính đang
được tải đi. Nhìn đồng đội từng khuôn mặt lấp ló màu tím đang nghiêm
trọng tiến quân. Cỏ cao gần thắt lưng. Rừng lá xanh khô khốc. Nắng đổ
trên thân thể nhớp nháp mồ hôi. Hình như tôi đang mất rất nhiều cảm
giác…
- Trời thế này thì nhớ nhà thật.
Giọng ấm áp của người đại tá kéo giật tôi. Vang trong tiếng ông là những tiếng động thầm thì của dĩ vãng. Tôi hỏi:
- Bây giờ, ở đây, anh nhớ nhất cái gì ?
- Nhớ nhất vẫn là mấy đứa cháu.
Ông
khẽ đáp, cả bằng ánh mắt nhìn trời. Tay ông đang giữ một bó hoa dại.
Người đại tá ấy từng xông pha nhiều mặt trận. Là phóng viên chiến
trường, tình cờ tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông
thành đại diện chính phủ Hà Nội tiếp thu Sài Gòn.
Buổi
tối hôm ấy gia đình tôi vừa tới đảo Guam. Không khí hoang mang hoảng
hốt của những người di tản làm cái đảo này như đang bị luộc trong nước
sôi của biển. Chúng tôi chụm đầu nghe radio tin tức quê nhà. Đến khi đài
BBC loan: “…một tấm bia vừa dựng lên: Nơi An Nghỉ của chế độ Cộng Hòa sau 20 năm chiến đấu” thì hàng loạt tiếng khóc nấc vang lên. Sự thật lúc ấy muốn không khóc cũng không được. Nước mắt chan chứa, cứ cuồn cuộn tuôn ra…
- Còn anh ? Anh nhớ gì ở quê nhà ?
Tiếng
ông lại kéo giật tôi lần nữa. Nhưng lần này tôi nổi giận. Tôi toan nói
mấy câu gắt gỏng khó chịu. Tiếng quạt động cơ rít lên gầm gừ. Chiếc trực
thăng bốc chúng tôi lên thẳng trên cao. Tôi nhìn xuống Sài Gòn đang nhỏ
bé dần trong nước mắt. Một tiếng kêu thất lạc ngoài đời hay trong tim
khiến tôi nức nở.Cố gắng cười. Rồi tôi thấp giọng hỏi ông:
- Chắc
anh chẳng quên được cái ngày đầu tiên theo xe tăng húc sập cổng Dinh
Độc Lập ? Thế lúc ấy anh có cảm giác gì? Anh có thể nhớ mà tả thực cho
tôi nghe được không ?
Ông nghiêng mình nhìn tôi rồi lại ngả ra nhìn trời. Mắt ông nhắm lại. Tôi ngại gây tiếng động nên ngồi yên. Rất yên. Chờ đợi.
Tôi
và ba người lính ngồi rất yên dưới hố đất thấp ven rừng. Rừng lá vẫn
khô khan. Không gió. Những khẩu súng cũng rất yên. Chờ đợi. Lệnh của Đại
Bàng. Nhưng bụng chúng tôi không yên. Nó réo lên vì đói. Một người ra
mật hiệu sẽ nấu cơm. Hắn lúi húi bỏ gạo vào nón sắt. Tốn cả bi-đông nước
mới đủ nấu. Tất cả không gây tiếng động. Trời và rừng vẫn im phăng
phắc. Ba người chúng tôi ôm súng canh chừng. Lâu lắm. Tôi liếc thấy hắn
nếm mấy hạt cơm. Mùi cơm thơm kỳ lạ, làm tỉnh mọi giác quan. Khuôn mặt
hắn đỏ hồng và mếu máo vì khói lửa. Hắn vừa buột miệng: “chín rồi!” vừa
bê nón sắt cơm đứng lên. Đoàng một cái! Tiếng nổ chát chúa bàng hoàng!
Tiếng kêu nấc của hắn rất ngắn. Lập tức máu ứa loang trên mặt. Tràn vào
nón sắt cơm còn ghì ôm trên ngực. Màu cơm trắng. Màu nón sắt xanh cứt
ngựa. Màu đỏ máu tía. Cùng với hơi khói mờ đục tỏa bay. Trong hầm đất
thấp. Giữa rừng khô thưa lá. Và tôi kịp nhận ra đàn kiến vẫn lặng lẽ đi
thành hàng...
Đàn
kiến dẫn tôi đến một ngôi làng heo hút. Chúng tôi đã trút vào làng
không biết cơ man nào là đạn, lựu đạn, M79…Đến khi thận trọng tiến vào
làng thì không thấy gì ngoài những đám cháy nhỏ rải rác. Không cả chó
gà…Và bất ngờ ở một hầm đất tránh bom chúng tôi nghe được tiếng người
vọng lên. Lập tức đám lính chĩa súng vào miệng hầm, tay cầm lựu đạn
quát:” Ra ngay! Không thì chết!”Dưới hầm im lặng. Tôi len đến gần. Lính lại quát:’ Ra ngay! Một lần nữa: Ra ngay! Chúng tao bắn này!” Vẫn im lặng. Họ toan bắn. Tôi cản, và quên cả thận trọng cơ bản, ghé sát miệng hầm nói từ tốn:” Các người nên ra vì nếu không sẽ chết hết. Vì lựu đạn sẽ ném xuống. Không còn cách nào khác đâu. Ra là sống!”
Im lặng. Rồi rất từ từ, chúng tôi thấy người chui ra. Lần lượt. Toàn
trẻ em, phụ nữ, một ông già, tất cả đến tám mạng! Họ đều run rẩy, hoang
mang ngơ ngác! Tôi không dám nhìn họ lâu. Suýt nữa, chúng tôi chỉ là
những kẻ giết người !
- Thực tình thì bấy giờ mình rất đói, và rất khát.
Giọng ông chùng và thân mật. Tôi vội thu ánh mắt miên man. Thật sự nhìn ông. Ông nói tiếp:
- Anh bảo, mấy ngày đi bộ dài như thế. Mệt lắm chứ!
Tiếng
“chứ” kéo dài và hắt cao. Nửa như phân trần. Tôi tần ngần nhìn cây cỏ.
Con người ấy, mươi năm trước tôi thấy trên kênh truyền hình PBS trả lời
những câu phỏng vấn; loạt Toàn Bộ Cuộc Chiến Tranh Việt Nam của Stanley
Karnow. Chiếc xe tăng lừng lững húc đổ cổng Dinh Độc Lập Sài Gòn. Còn
trong vụ Thiên An Môn 1989 ở Trung Hoa, chiếc xe tăng bị một thanh niên
đứng cản. Hai hình ảnh cùng xuất hiện trong màng óc tôi.
Đại
đội đi theo sát những chiếc xe tăng. Bánh xích sắt nghiến nát mặt đất.
Cỏ khoai ngô sắn bắn tung tóe. Tầm đạn AK khi cao khi thấp vẫn trả lời
loạng choạng. Tôi thấy bóng người thấp thoáng ở rất xa. Lập tức hàng
loạt đạn M16 tuôn nổ như bắp rang. Một chiếc tăng gầm rú phóng lên như
trâu điên. Những bụi tre gai quằn quại đổ. Đất đỏ quắn lại như những
mảnh thịt vụn. Nhưng rốt cuộc chúng tôi không tìm thấy một vệt máu nào.
Chống tay ngồi dậy, gió núi lùa theo bao nhiêu mùi hoa lá, người đại tá khều tay tôi, giọng tâm sự:
- Anh
biết không. Khi vào đến cổng Dinh Độc Lập tôi mới thấy rằng mình đã quá
mệt. Mặc kệ hết! Tôi nằm bừa xuống cỏ. Ngửa nhìn trời. Qua tàng lá me
hay phượng vĩ gì đó, tôi thấy trời xanh lơ. Và những cụm mây trắng lững
lờ. Trong đầu tôi chỉ có một ý tưởng là :“ À! Chiến tranh đã chấm dứt!”
Anh không thể nào hiểu được chúng tôi lúc đó. Chiến tranh đã chấm
dứt!!! Nghĩa là…từ đây…chúng tôi sẽ…không còn đói khát – cực khổ -
và…day dứt !
Khuôn
mặt ông biểu lộ sự thành thực trong khi nói. Tôi nhìn và tôi tin. Chúng
tôi từng đi bộ. Ba lô, đạn dược, và ngay cả trang phục nặng nề. Nắng
hoặc mưa. Rừng núi sình lầy hay đồng ruộng. Đoàn quân phải bước theo
lệnh. Mặc kệ phổi ai, bụng ai, và tim ai dẫu thế nào! Đã nhiều lần tôi
không điều khiển được đôi chân. Miệng há hốc. Đầu óc rỗng toang. Chẳng
biết cao hay thấp. Chỉ muốn nằm thẳng cẳng! Ra sao thì ra! Thì vừa may
có lệnh ngừng. Tôi còn cố đứng. Cố nhìn chung quanh. Cố làm ra vẻ bình
tĩnh, ra vẻ chu đáo cẩn thận, trước khi lăn quay xuống đất hay cỏ. Con
người tôi thường chống chọi với bản năng. Thành ra trong cuộc chiến, tôi
luôn phải chiến đấu song trùng. Nhưng dù cố gắng đến đâu tôi vẫn kém xa
một người anh họ. Anh cùng binh chủng, và tác chiến như tôi. Thế mà
suốt thời gian ấy anh vẫn học và viết cả dưới giao thông hào để hoàn tất
luận án tiến sĩ. Hồi đó chúng tôi đang độ tuổi hai mươi – ngạt ngào lý
tưởng, và …tràn đầy tự phụ! Vì kém ngoại ngữ, tôi bèn lập dị bằng cách
học chữ Nho. Thế là trong ba lô, trong túi quần tôi đầy chữ Nho. Học
nhồi học nhét những nét xổ nét móc chỉ để bớt mặc cảm về sự ít học của
mình. Gặp anh , tôi được dịp khoe kiến thức cổ văn . Dĩ nhiên để nhận
lời khen ngợi. Hỡi ơi! Sang Mỹ mấy năm sau tôi mới được tin anh bị tù,
rồi bị bắn chết ngay chân rào trại giam! Anh từng viết lên tường, bên
giường ngủ: “Sống để trở thành Linh Hồn Việt Nam”. Cuối tháng ba năm 1975, chúng tôi còn chở nhau trên chiếc vélo solex đen, giữa Sài Gòn, để ngắm “thành phố đang đi vào lịch sử”, lời
anh tiên đoán. Chiếc vélo solex đen mong manh của chúng tôi nếu húc vào
cổng Dinh Độc Lập thì chắc chắn xe cong đổ chứ cổng dinh vẫn …thản
nhiên. Tôi chắc rằng khi chiếc xe tăng ủi sập cổng Dinh Độc Lập thì đoàn
quân cộng sản hả hê reo hò. Họ hò reo trên bao nỗi đớn đau của người
bại trận. Chuyện ấy từng lập lại mãi hoài trong lịch sử. Biết thế nhưng
tôi vẫn tức tối hỏi quạu:
- Đã
thế sao các anh không từ tốn mở cổng Dinh đi vào ? Làm oai làm tướng
húc đổ cổng để làm gì? Hành động ấy có khác gì quân thảo khấu ?
- Anh thừa biết mà. Lính tráng họ hứng lên thì có trời mà cản. Ông khoát tay cười xòa.
Tôi
đứng bật lên. Cũng có hơi bất lịch sự với ông. Nhưng trong tôi đang vừa
sôi nổi tức tối và buồn bã. Tôi bước hụt hẫng bơ vơ. Trời không có
khói. Chỉ có mây dàn hàng ngang. Và hơi thở tôi dồn nén theo hàng dọc.
Đời người mấy khi hơi thở được tương thông. Có lúc ta thở dài. Đôi khi
ta thở ngắn. Nhiều khi ta thở không ra hơi và… nấc cục. Rồi một ngày đẹp
trời, ta …không thở nữa!
Tháng
4 năm 1971, tôi bỏ ăn bỏ ngủ vào Bệnh Viện Cộng Hòa ở Gò Vấp nhìn bạn
tôi nằm…thở. Anh được tải thương từ chiến trường Cambodia về vì mảnh đạn
B40 lọt xuống phổi. Người ta đục ngực, gắn ống plastic để nước dơ và mủ
trong phổi có chỗ thoát ra. Anh phải thở bằng ống dưỡng khí. Tuy không
nói được, nhưng mắt anh hiểu, và nhếch cười khi nhìn tôi. Một người bạn
khác viết đùa hai chữ TỊNH KHẨU để trước ngực anh. Ngực anh vẫn đều đặn
nhô lên thụp xuống. Bẩy đêm sau, tôi một mình đăm đăm theo dõi ngực
anh. Bỗng thấy ngực anh thụp xuống rồi…không nhô lên nữa! Tim tôi rối
loạn như nghe những tràng đạn AK xối xả. Anh chết trẻ quá, mới vừa tuổi
23. Trong cuộc chiến, bấy giờ chúng tôi chỉ là những thanh niên hăng say
lý tưởng và …ngờ nghệch. Chiến tranh làm cái chết mất đi vẻ thần bí và
lãng mạn. Nó vội vã, bất ngờ, trắng trợn và tàn nhẫn. Nó dựng đứng trước
mặt sau lưng. Nó chặn đứng mọi lối thoát của đời người.
Bao
nhiêu năm sau cuộc chiến, ở Mỹ tôi liên lạc được với người bạn cũ cùng
đơn vị. Anh đã bị cùm kẹp tra tấn hơn 10 năm ở Việt Bắc. Tội của anh là
đeo lon đại úy và làm thơ. Thân anh rũ liệt. Nửa người tê và phù thủng.
Anh nói qua ống nghe:”Tao biết Phật Chúa dạy từ bi bác ái. Nhưng xin lỗi. Để kiếp sau. Kiếp này tao không thể quên được hận thù.”
Tôi nghe tê tái quá, chỉ lặng thinh, tôn trọng nỗi đau của anh. Anh là
một nhà thơ, thỉnh thoảng mới viết văn. Hồi đó chúng tôi vừa chiến đấu
vừa chơi trò đố thơ với nhau để giải trí, hoặc để…bớt sợ. Trò chơi đơn
giản: người đố đọc một chữ như “đau”.Kẻ kia ráng tìm ra câu thơ
có chữ ấy, với tên bài, tên tác giả. Chỉ có thế mà chúng tôi chơi dưới
giao thông hào, trên võng hành quân, và ngay cả trong lúc …đánh trận! Y
hệt những đứa trẻ con nhà nghèo say mê chơi nút chai và …lõi cuộn chỉ!
Tôi
nghe được tiếng ông đứng lên. Hơi nặng nhọc. Tôi dừng lại, nhìn bụi cây
hoa trắng. Mùi ông mỗi lúc mỗi gần. Tiếng ông chợt cất lên:
- Mình
không biết anh có ở quân đội không. Chiến tranh nó kỳ cục lăm! Thê
thảm, bất công, man rợ, đã đành. Nhưng cái đáng sợ nhất là nó làm ta day
dứt! Trong cuộc chiến tiếp theo năm 1979 ở Cambodia, nó khủng khiếp
ngoài sức tưởng tượng. Đồng thời nó day dứt quá sức chịu đựng.
- Chẳng hạn như ? Tôi cố lạnh lùng hỏi.
Tay ông hái thêm đóa hoa trắng, nhỏ giọng:
- Chẳng hạn những xác phụ nữ Việt bị lính Miên hiếp rồi cho nổ nát âm hộ…
Tôi lại cáu:
- Tôi
đọc báo hồi đó, đảng và nhà nước các ông la toáng lên vì những chuyện
ấy rồi. Nhưng tình cờ sau này tôi quen một thanh niên giang hồ. Anh ta
từng dự trận ở Cambodia cuối năm 1978, đầu năm1979. Anh ta bảo đoàn quân
phần lớn là trai trẻ tuổi từ 16 đến 30. Họ tình nguyện hoặc bị cưỡng
bách. Anh ta 17 tuổi, vì túng quẫn nên tình nguyện. Và cũng chuyện khát
máu man rợ ấy từ đoàn quân Việt, họ điên cuồng lùng bắt đàn bà Miên. Họ
hiếp xong, hoặc bắn chết, hoặc gài thêm lựu đạn cho nổ tung âm vật! Anh
ta tâm sự: “Chẳng hiểu sao bấy giờ không ai thấy kinh tởm. Tụi em
hành động như lên cơn điên. Như ma làm. Để sau này, cứ chợp mắt là em
thấy máu. Hối hận vô ích anh ạ. Chả có cách nào tha thứ cho sự dã man
tàn bạo lúc ấy.” Anh ta tình cờ lưu lạc sang tới Mỹ. Nửa điên nửa
dại. Sau tôi nghe nói anh ta đã vào hẳn nhà thương điên. Thành ra chuyện
anh biết chỉ có một mặt...
Ông
gật gù yên lặng. Tôi tự hỏi: Ta có nên tự ti hay tự tôn trong các cuộc
chiến của ta vừa qua không ? Có nên kể lể với các thế hệ sau không? Có
nên bào chữa rằng tự vệ là bản năng sinh tồn không? Có nên thần thánh
hóa, lãng mạn hóa, hay phóng đại cuộc chiến nữa không? Tôi định nói:”
Thôi anh ạ. Dù gì cỏ xanh cũng đã phủ kín những nấm mồ. Phủ kín
những hố bom lỗ đạn, những xác máy bay, xe tăng…như thể mặt đất bị
thương, giờ đang kéo da non. Trái đất này đang cần rất nhiều màu xanh.
Anh từng trương cờ đỏ, húc đổ cổng tường. Rồi anh nằm trên cỏ xanh. Nhìn
lên trời xanh. Mơ mộng về cõi xanh. Chắc lòng anh rồi sẽ …xanh.” Nhưng
nhìn kỹ lại ông, trong không gian rực rỡ nắng vàng, và rừng núi Santa
Cruz xanh ngát, tôi …bâng khuâng! Trong khoảnh khắc, tất cả bỗng xa
vắng vô cùng...
tường vũ anh thy san jose 1992
Ghi
chú: Tôi viết truyện này hoàn toàn dựa vào những sự có thật, sau chuyến
đi chơi loanh quanh với người bạn bác sĩ và người đại tá từ Pháp sang.
Chúng tôi hội ngộ vào tháng 4/1992. Lúc đầu truyện có tên Mystery Spot,
một địa điểm du lịch ở Santa Cruz, California, Hoa Kỳ; đã đăng trên tạp
chí Khởi Hành số 18-tháng 4/1998. Nay đọc lại bản thảo viết tay, tôi tự
đánh máy, sửa chữa và đổi tên cho đúng ý nghĩa hơn. tvat 26/3/11