Năm 1847, Cao Bá Quát được triệu vào kinh, làm việc trong viện hàn lâm. Ông thường đi công cán ở Đà Nẵng, Quảng Ngãi… Đây là thời kỳ Cao Bá Quát sống khắc khoải giữa mộng và thực, giữa lưu đầy và quê nhà, giữa muôn vàn cảm khái về sự chờ đợi cuộc lên đường… Ông mượn rượu và trăng, vừa để tiêu sầu, vừa để ấp ủ …Thơ ông đắm đuối như một cánh chim chao lượn mê mải về cuối trời hứa hẹn, như một giòng sông vươn tới biển mù khơi.
Bấy giờ là mùa thu, gió vàng bay rất chậm, trăng trên sông Trà Khúc lồng lộng áo phù vân. Hình như thu với trăng chứa rất nhiều ly biệt, và cuộc ra đi ắt mang nỗi trở về. Nhất là trăng sông Trà, không biết vì đâu đêm nay trăng lại sáng thế! Sáng và trong văn vắt. Sáng khắp một giải nước non gấm vóc muôn vạn nẻo đường đời. Màu trăng vương vấn quấn quít và xa xôi như nhớ như thương như chờ như đợi trên từng ngọn cỏ lá cây, từng viên sỏi đá cát hoang bờ tường phên giậu. Ta muốn mời trăng cạn nốt ly này. Trong trăng có rượu hay trong rượu có trăng. Trăng bước vào ly trăng đi sóng sánh. Ta muốn ngậm lấy trăng trong vành ly đời dâu bể, thì hốt nhiên trăng bặt âm. Đôi ngươi mở, ta chỉ thấy bóng người ngang dọc như bóng những mùa xa xăm; phải chăng trăng đã khuất, bóng đã tan, thời đã hết …
Ta hờ hững đặt ly về dưới chiếu. Rượu bỗng đầy loang loáng ánh trăng thu. Sao trăng vẫn còn đây, còn vương vấn còn dìu dặt cung đàn, còn lẽo đẽo cùng ta đến cùng đường lạc lối. Xưa chàng Nguyễn Tịch (trong nhóm Trúc Lâm thất hiền) đã đi tìm trăng khắp vạn nẻo, mỗi lần đi là mỗi độ trở về nức nở nỗi cô đơn. Chàng đã xin làm hiệu úy trong trại bộ binh để được uống rượu mời trăng. Còn ta, ta cũng làm quan tại bộ Lễ để có rượu này. Ở đầu sông, gặp tiết trời heo hút của mùa thu, ta muốn mời trăng cả một bầu rượu tràn, muốn nói với trăng rằng ta có người bạn cũ là bác Tồn Chân, đêm nay cùng uống rượu mời trăng. Bạn ta ở Đà Nẵng. Sáng sớm mai bác ta sẽ lên đường đi quân thứ ở cửa biển Cần Giờ.
Hình như từ đêm qua, gió vàng đã thổi hiu hắt tự trời cao. Móc trắng sương mù vần vũ làm buốt lạnh tận xương gan. Cái mùi lạnh ngai ngái của biệt ly. Đời người thật dễ gì được gặp nhau luôn. Mây sớm với trăng tà. Cuộc đi biền biệt. Hãy uống. Sẵn rượu đây hãy mời trăng sông Trà.
Trăng sông Trà! Trăng lồng lộng như tấm gương ngâm dãi dầu dưới giòng nước bạc. Nước vẫn trôi, trăng vẫn lộng. Hề! Đấng trượng phu chống kiếm đi thì đi thẳng. Sá gì sương móc với heo may. Đừng giùng giằng ly biệt kiểu nhi nữ thường tình.
Đó là giải ý trong một bài thơ Cao Bá Quát làm để tiễn bạn lên đường. Bài thơ có tựa đề :
Trà Giang Thu Nguyệt Ca
Trà giang nguyệt
Kim dạ vị thùy thanh ?
Quan sơn vạn lý hạo nhất sắc
Hà xứ bất hệ ly nhân tình
Cử bôi thí yêu nguyệt
Nguyệt nhập bôi trung hành
Hãm bôi dục yết cánh phi khứ
Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành
Dinh bôi thả phục trí
Hựu kiến cô quang sinh
Vấn quân hà sự luyến luyến bất nhẫn xả
Ngã thị Trúc Lâm cùng đồ chi bộ binh
Giang đầu thử tịch phùng thu tiết
Tửu mãn tu khuynh vị quân thuyết
Đà môn cựu lữ Tồn Chân ông
Cần hải minh tiên hiểu tương biệt
Tạc dạ kim phong há thiên khuyết
Bạch lộ, thanh sương sảo xâm cốt
Nhân sinh hội ngộ an khả thường
Hữu tửu thả ẩm Trà giang nguyệt
Trà giang nguyệt
Như kính há ngân lưu
Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ
Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu
Trăng Thu Sông Trà Ca
Trăng sông Trà, trắng sông Trà
Đêm nay vằng vặc đậm đà vì đâu
Mênh mông muôn dặm một màu
Không đâu không nhuộm tình sầu chia phôi
Mời trăng một chén rượu nồng
Trăng vào đáy cốc trăng lồng lộng bay
Nhắp môi trăng chợt tắt ngay
Dọc ngang chỉ thấy lung lay bóng người
Dừng tay đặt chén bồi hồi
Ánh vàng lại đọng ngời ngời đáy ly
Trăng còn lưu luyến chưa đi
Ta còn kiếp lính chân chim đọa đày
Đầu sông gặp tiết thu gầy
Nghiêng bầu rượu rót lời đầy lời vơi
Tiễn người bạn cũ ra khơi
Sớm rời Đà Nẵng, tối rơi Cần Giờ
Đêm qua vàng gió lưng trời
Mịt mù sương móc lạnh đời buốt xương
Đời người đâu dễ gặp thường
Rượu đây hãy uống mê cuồng với trăng
Trăng sông Trà, trắng sông Trà
Dưới giòng nước bạc vẫn là tấm gương
Làm trai vung kiếm lên đường
Đi thì đi dứt đừng thương với sầu
Tường Vũ Anh Thy 1982
( Trích trong Cao Bá Quát Giữa Hồn Thiêng Sông Núi, Ức Trai xuất bản 1985)
Lời thêm : Vào những năm 1977-1979, bạn tôi là Đào Mộng Nam ở New York đã chịu khó sưu tầm tài liệu sử và văn học Việt Nam, chụp và gửi cho tôi; đặc biêt là thơ chữ Nho của Nguyễn Du và Cao Bá Quát. Công việc vất vả và tốn kém, mà tôi chỉ gửi được chút chi phí. Đến mãi năm 1981-1982, tôi mới có dịp đền ơn khi anh đến sống với tôi một thời gian dài ở San Jose. Dịp này tôi cũng lăn lóc học thêm chữ Nho của anh. Anh đã giúp tôi hiểu và dịch được những văn cổ. Thật là một người bạn người thầy quý hóa. Thế mà lúc anh mất bất ngờ vào cuối tháng tám 2006, tôi đã không viếng anh được. Cuối năm ta, đầu năm tây 2011, tôi bỗng nghĩ đến anh nhiều, nên sẽ đánh máy một số bài thơ của Nguyễn Du và Cao Bá Quát một thời dịch với anh, hoặc một mình, đã từng mạo muội xuất bản. Riêng bài Trăng Sông Trà tôi còn có ý gửi riêng cho một người bạn nữa là anh Võ Hoàng, bấy giờ đang chờ đi chiến đấu ở biên giới . Chúng tôi cùng làm tờ Nhân Văn. Võ Hoàng tuy bình tĩnh, nhưng vẫn băn khoăn. Đào Mộng Nam có khích lệ anh ấy. tvat 23/1/11
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét