điêu khắc

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

Cao Bá Quát: thiên địa nhất thi tù



Ngày tháng trong tù trôi rất chậm – chậm đến độ người tù có cảm tưởng mình cầm được thời gian. Bởi vì thời gian thì rất gần, kề sát một bên, đè lên đầu tóc mắt môi, thấm vào xương máu. Nhưng không gian lại rất xa – xa đến độ người tù có cảm tưởng mình không ở trên đời. Bởi vì ánh nắng ngoài cửa, trong khe, tuy nhìn thấy mà không với bắt được. Đêm trăng càng như xa lắm. Cả một giải trăng ngoài kia không nói làm gì, đến như vạt trăng rất gần ngoài cửa sổ, người tù cũng không được đụng đến. Hỡi ơi mưa càng đứt ruột. Con nước dâng nửa đêm về sáng. Gió chớm mùa đông thổi vì vèo như đuổi mùa thu đi. Cái không gian xa quá là xa kia, và cái thời gian quá gần này đã làm mỏi mòn võng mô. Màng mắt người tù không đủ nước, phải sước ra, vừa xót vừa đau. Phải chăng đây mới thật là mỏi mòn con mắt phương trời đăm đăm. Người ta hay dung chữ “lệ đá”. Nghe thì đẹp mà có diễn tả được điều gì. Cao Bá Quát ở tù mới cảm nhận được thế nào là thời gian dũa mòn con mắt, thế nào là nước mắt khô, nước mắt sống; thế nào là máu mắt, thế nào là bệnh nhãn. Không phải chỉ có bệnh nhãn mà thôi, bệnh đủ thứ trên xác thân và trong nội tạng. Chỉ có trái tim là vẫn tràn máu, và chỉ còn máu để đổ vào thơ. Ôi trời đất mênh mang nhốt một người tù cặm cụi làm thơ. Hay chỉ còn thơ của người tù vẫn lồng lộng giữa đất trời cô quạnh u ám
Ngày ngày nhìn thanh kiếm. Người lặng thinh, kiếm cũng lặng thinh. Trong sự lặng thinh có quá nhiều âm vọng. Tâm sự Cao Bá Quát dằng dặc không khác tâm sự Nguyễn Du. Trong bài Tạp Ngâm, Nguyễn Du viết:
Lưu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca
( Thời ca càng bước càng sầu
Tráng tâm u uất như màu kiếm hoen)
Phải chăng tâm sự của những tay tráng sĩ tài hoa giữa đất trời lưu lạc vẫn là nỗi cay đắng thiết tha với cõi người ta, vẫn là niềm băn khoăn khơi mở cuộc trùng sinh lịch sử ?
Có đêm buồn quá, Cao Bá Quát rọi đèn lần xem tấm áo bông. Tấm áo vợ ông gửi vào từ năm ngoái, có lẽ chính tay bà đã may? Tấm áo bây giờ còn mới hay đã cũ? Ông sờ lần từng đường chỉ mũi kim? Ông lật trong lật ngoài? Nó chỉ là tấm áo bông. Nó ấp ủ thân hình ông những đêm mùa đông xứ Huế. Ôi còn hình ảnh bi tráng nào bằng hình ảnh một trang tráng sĩ chống kiếm rọi đèn sờ lần tấm áo bông cũ trong góc nhà giam! Hốt nhiên ông muốn bật tiếng hú cho vang vọng đất trời. Nhưng ông nín lại. Chỉ có máu đang chảy cuồng nộ trong tâm. Và chỉ có gió đêm se thắt ngoài song ngục. Ông viết: giận vì tâm lực vẫn tràn đầy, mà bị nhốt nằm một chỗ, buồn không chịu được.
Đó cũng là một tiếng hú dài trong bài thơ sau:

ĐỘC DẠ CẢM HOÀI

Tân trướng sinh tàn dạ
Sơ hàn tống miểu thu
Tuế thời song bệnh nhãn
Thiên địa nhất thi tù
Ỷ chẩm khan trường kiếm
Hô đăng kiểm tệ cừu
Cưỡng liên tâm lực tại
Cơ ngọa bất câm sầu

TÂM SỰ TRONG ĐÊM

Con nước ngập nửa đêm về sáng
Gió mùa đông thổi lá tàn thu
Thời gian cứa mắt sưng vù
Đất trời cô quạnh người tù làm thơ
Ngồi câm lặng trơ vơ thanh kiếm
Đốt đèn lên xem áo bông xưa
Giận vì tâm lực vẫn thừa
Mà giam một chỗ, xin thưa: muốn cuồng

tường vũ anh thy 1982
(trích trong Cao Bá Quát Giữa Hồn Thiêng Sông Núi - Ức Trai xuất bản 1985)


Không có nhận xét nào: