điêu khắc

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Cao Bá Quát: tình ẩn trăm năm




                     Đời lê thê quá anh về muộn
                    Em ngủ một mình đêm gió mưa
                     (Hoàng Trúc Ly)

Đó là tình hiện (xem Cao Bá Quát: tình hiện ra lời) còn tình ẩn của nhà thơ trong những ngày heo hút đó? Thấp thoáng trong hiện tình là những ẩn tình xa xôi nơi phương trời nào còn ai oán hận chia phôi. Cao Bá Quát đã nói và nói rất nhiều về cái ẩn tình đó.
ẩn tình hay ân tình?
Ngày Cao Bá Quát nhận được thư nhà, vợ ông gửi vào cho ông tấm áo bông, bút và các thứ; ông đã ứa nước mắt. Ra đi, những tưởng nên công cán gì, rốt cuộc lại ngồi tù như một anh trượng phu quèn, số phận chưa biết sẽ ra sao. (lúc đó nhà nước chưa định tội.) Cuộc thăm nuôi đầu tiên này, tuy không gặp mặt, nhưng lòng ông xúc động mãnh liệt còn hơn lần trở về sau những cuộc đi xa trước kia. Ông thương vợ con, cha mẹ, anh em, hàng xóm, đã trực tiếp hay gián tiếp vì ông mà chịu nhiều khổ lụy. Ta không biết nội dung bức thư nhà đã viết những gì, nhưng qua bài Được Thư Vợ Gửi Áo Bông, Bút và Các Thứ (Tiếp nội thư tính ký hàn y bút điều sổ sự), ta cũng có thể đoán ra vợ ông mong mỏi ông sẽ sớm được khoan hồng trở về xum họp với gia đình. Bà cũng báo qua tin tức ở nhà, mọi sự không có gì thay đổi nhiều từ ngày ông ra đi. Riêng bà, bà rất yên tâm  và tin ở ông. Bà sẽ như nàng Mạnh Quang vợ của Lương Hồng đời đông Hán, nhà nghèo, theo chồng đi ở ẩn, thường giã gạo thuê kiếm ăn, không chút phàn nàn. Nay ông gặp vận không may, mắc vòng lao lý, thì ở nhà, cùng lắm thì bà cũng đi giã gạo thuê,  gánh nước mướn, buôn chiếu bán tằm nuôi con, thay ông phụng dưỡng cha mẹ… Ý bà như thế, nên đọc đi đọc lại lá thư dưới ánh đèn tù, nước mắt ông ứa ra. Hồn ông suốt đêm như luẩn quẩn quanh chốn buồng thêu lảng vảng xa xăm của vợ. Ông hận không về được ngay nhà, hay đón được vợ ra để cảm tạ lòng bà. Tấm áo bông bà gói ghém rất phẳng phiu cẩn thận, tưởng như bà còn gói vào đấy bao nhiêu ân tình cho đời ông. Ngọn bút lông bà cho, màu trắng, đầu nhọn, tưởng có thể vung lên xóa sạch bao đau khổ từ xưa. Bất chợt lòng ông mềm ra như bún, ông bỗng có một nỗi mong mỏi, ngày nào đó sao kim kê xuất hiện, báo hiệu nhà nước có lệnh ân xá cho các tù nhân. Ông sẽ được trở về mái nhà xưa. Nơi ấy, ngay ở ngưỡng cửa, chân ông vừa giẵm lên, vừa biết có người vợ yêu quí, tình nghĩa thâm trọng, vẫn chờ ông, vẫn tin ông, vẫn hiểu ông, vẫn buôn tần bán tảo trong suốt thời gian qua.

Được Thư Vợ Gửi Áo Bông, Bút và Các Thứ

Đọc thư nhà dưới đèn cay mắt
Hồn đêm nay quay quắt phòng xưa
Hận không sớm được đón đưa
Một mình chờ mộng tin đưa khoan hồng
Tấm áo bông xiết bao tình tứ
Ngọn bút lông xóa sạch khổ đau
Mai này về lại nhà sau
Giẫm lên ngưỡng cửa biết nhau nghẹn ngào

Tiếp nội thư tính ký hàn y bút điều sổ sự

Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề
Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê
Trường hận thùy giao luân cẩm tự
Độc miên nhân tự vọng kim kê
Hàn y ổn thiếp phong tân tứ
Tố quản tiêm minh tẩy cựu đề
Lai thất tha thời hảo qui khứ
Nhập môn tri hữu nhẫm thung thê

Chữ “cẩm tự”ở câu thừa, do tích “cẩm tự hồi văn” kể chuyện Tần Đậu Thao giận vợ là Tô Huệ, đến khi đi làm quan ở Tương Châu, không thèm liên lạc về nhà. Bà vợ làm thơ dệt thành một tấm gấm, lời lẽ thâm trọng, gửi cho chồng. Đậu Thao nhận được vừa cảm vừa phục, bèn cho xe đến đón nàng.
Chữ “Lai thất” có nghĩa là nhà ở gò Lai, quê hương Cao Bá Quát. Còn câu cuối nguyên nghĩa là bước vào cửa đã biết có người vợ đã từng đi giã gạo thuê nuôi con, chờ chồng.
Cái cảm động và thành thật trong bài này đã nói lên khía cạnh tình cảm chan chứa rất người trong tâm hồn Cao Bá Quát; khác với thái độ ngang tang khí khái khoáng đạt hàng ngày. Ở một bài khác, “Nhân người ngoài bắc vào, hỏi thăm tin tức trong làng” ông làm vào mùa xuân đầu tiên trong tù, cũng chứa chan một tấm lòng thương yêu. Nhìn thấy người làng, cả hai đều sững sờ cảm động, nước mắt đỏ hoe. Họ quấn quýt, nói chuyện thầm thì suốt đêm về tình cảnh trong làng. Được biết cha mẹ ông vẫn mạnh khỏe, chỉ nhớ thương ông đã đi xa, lại gặp cảnh ngộ xấu. Các con ông thì mừng rỡ khi biết tin ông vẫn còn sống. Hỏi thăm chồng bản thảo cũ, được biết người nhà dọn bỏ cả vào cái bồ rách trong phòng, bụi thời gian chắc đóng đầy lên chốc. Đặc biệt là cây mai trắng, ông ghi chú cẩn thận, trước ông trồng trong chậu sứ; gần đây người nhà đã đem trồng ra ngoài vườn, nay vọt lên cao quá đầu người. Ông ngâm ngùi nhìn về phương bắc, trời quê hương thăm thẳm mịt mù. Xuân trong tù đã hết, có ai lay gọi hồn ông không? Hình như hồn ông vừa lịm chết vì thương nhớ.

THOẠI CỐ HƯƠNG TIÊU TỨC

Mạch mạch tương khan thức lệ ngân
Nam nam bất yếm thoại hương thôn
Lão thân kiện tại liên nhi cách
Trĩ tử hoan lai hỷ phụ tồn
Cựu thảo tự trần đôi phế lộc
Tiểu mai vô lại khóa tu viên
Trường đình bắc cố vân thiên viễn
Xuân tận thùy chiêu vị tử hồn

THĂM HỔI CHUYỆN LÀNG

Cùng sững vững cùng trào nước mắt
Cùng miên man hỏi chuyện xóm nhà
Hai thân thương nhớ con xa
Trẻ thơ mừng rỡ reo la bố còn
Sách vở cũ đầy trong sọt rách
Cây mai xưa lớn cạnh tường cao
Vời trông mây bắc nghẹn ngào
Ai lay hồn lịm giữa màu xuân tan

Những tình cảm rất vụn vặt, rất tầm thường, và rất gần gũi ấy, Cao Bá Quát đều đem cả vào thơ, hết sức giản dị, thành thực, không hề chau chuốt, không hề làm văn chương. Ông không giấu giếm cái ngang tàng khoáng đạt. Ông cùng quan điểm với Vương Diễn khi nói về con người của thi sĩ. Theo đó, thánh nhân là bậc có thể quên tình; kẻ tầm thường có thể không biết đến tình; riêng thi sĩ là người gom hết mọi tình ý trong trời đất để…làm thơ! Có vậy, chỉ cần một hình ảnh, một câu nói, một khúc hát, một ý tưởng…cũng đủ là duyên cớ khêu gợi, mở phơi khối tình cảm chứa chan của thi sĩ. Thí dụ một lần xa quê, Cao Bá Quát nhìn thấy hai đứa trẻ không biết con nhà ai. Chúng vừa đi vừa bi bô nói chuyện. Chỉ có thế mà bỗng nhiên ông nổi niềm thương nhớ con. Nhớ lúc chúng phụng phịu mếu máo kéo áo mẹ kêu đói, đòi ăn. Nhớ lúc chúng lon ton bám theo ông nội học vái học chào. Rồi miên man suy nghĩ tưởng tượng về hoàn cảnh gia đình, thân phận. Tưởng tượng nhà vắng vẻ quạnh hiu từ khi ông đi xa. Ôi càng nhìn ngắm hai đứa trẻ xa lạ càng nhớ nhung cuồn cuộn. Phải chăng tình là sự khắng khít không rời. Đó là hình ảnh và ý tưởng ông viết trong bài Nỗi Nhớ

HỮU SỞ TƯ

Tiểu tiểu nhân gia tử
Song song bộ ngữ trì
Vong tình năng hữu kỷ
Ngộ diệc ức ngô nhi
Luyến mẫu đề cơ xứ
Khiên ông học bái thì
Môn lan kim bán tịch
Ư nhĩ hệ tương tư

NỖI NHỚ

Tung tăng bé nhà người
Bi bô tiếng nói cười
Quên con đời mấy kẻ
Nhớ con ta nào nguôi
Níu mẹ khóc kêu đói
Ôm ông học vái trời
Cửa nhà giờ vắng vẻ
Thấy trẻ sầu thêm khơi
(bản dịch của Đào Mộng Nam)

Chữ “vong tình” lấy ở câu nói của Vương Diễn. Diễn có con nhỏ bị chết. Sơn Giản thấy Diễn quá đau khổ nên tìm lời khuyên giải. Diễn nói: “ thánh nhân vong tình, hạ ngu bất cập tình, tình chi sở chung chính tại ngã bôi.” ( thánh nhân quên tình, hạ ngu không tới được tình, tình gom lại hết ở bọn chúng ta.)
Đời Cao Bá Quát là một đời phiêu dạt, nay đây mai đó, hết lều chõng đi thi, đi làm quan, rồi đi tù, đi đày, vì thế vợ ông bỗng trở thành khuê phụ. Ông làm bài Từ Ngày Chàng Ra Đi để nói lên tâm sự của bà, mà cũng là mối tình của ông. Từ buổi ông đi xa, thì đêm đêm một mình bà một bóng, gối lẻ, chăn đơn, giường vắng. Trăng soi mặt nước như tràn vào giấc mộng cô liêu. Gió sông rờn rợn lạnh cả trời chiều. Tấm áo bông treo trong phòng tối quạnh hiu. Còn tấm gương con bà muốn gửi theo mây trời viễn xứ, để cho ông, và vì ông. Dù là đời ít gặp, mặt ít kề, nhưng tình của ông bà không bao giờ vơi, không bao giờ dứt.

TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ

Tự quân chi xuất hỹ
Dạ dạ thủ không sàng
Hải nguyệt chiếu cô mộng
Giang phong sinh mộ lương
Tiểu kính ký viễn thiếp
Hàn y lưu cố phòng
Trì thử các tự úy
Bất khiển lường tương vong

TỪ NGÀY CHÀNG RA ĐI

Từ buổi chàng đi xa biền biệt
Thiếp đêm đêm gối lẻ chăn buồn
Trăng soi biển mộng chập chờn
Gió sông rờn rợn chiều gờn gợn xanh
Chiếc gương nhỏ theo chàng viễn xứ
Mảnh áo bông thiếp giữ trong phòng
Của nhau an ủi đôi giòng
Xa nhau lòng vẫn một lòng nhớ nhau

Đầu bài nguyên là câu đầu bài thơ “nhuận tình” của Từ Cán, người nước Ngụy thời Tam Quốc; Trương Cửu Linh thời Đường mượn làm đề tài cho một bài thơ tả thiếu phụ nhớ chồng:
Tự quân chi xuất hỹ
Bất phục lý tàn ky
Tự quân như mãn nguyệt
Dạ dạ cảm thanh huy
( Từ ngày chàng đi rồi, thiếp không đụng tay đến cái máy dệt nữa. Thân hình thiếp gầy mòn vì nhớ chàng, như mặt trăng tròn cứ khuyết dần mỗi đêm.) Tùng Thiện Vương cũng mượn đề tài này viết thành thơ năm 1845 trong tập Thương Sơn:

Tự quân chi xuất hỹ
Nhật dạ tổn dung quang
Tư quân nhược thù võng
Xúc xứ tiện hồi trường

( Kể từ giờ phút chàng xa
Ngày đêm thân thiếp phôi pha hao mòn
Giống như lưới nhện bao tròn
Nhớ thương động đến ruột còn quặn đau)
(Bản dịch của Ưng Trình và Bửu Ý)

Sở dĩ chúng tôi trích dẫn dài giòng vì có thể ngờ rằng đề tài này rất sôi nổi, và được nhiều người hưởng ứng như một phong trào văn nghệ thời bấy giờ. Sự kiện Tùng Thiện Vương làm năm 1845, thì có thể Cao Bá Quát cũng làm trong khoảng thời gian đó. Qua mấy bài thơ vừa kể, ta thấy ý và lời của thơ Cao Bá Quát chân thật trong sáng; khác với Trương Cửu Linh và Tùng Thiện Vương. Cao không bao giờ làm thơ chơi khơi khơi. Thơ Cao là chính hơi thở đời sống ông. Dù là thơ họa hay thơ vịnh, hay nói đến các việc, các sự vật bình thường như chải đầu, ăn cơm, cây gạo, hòn đá…hay các đề tài cũ rích cà tang vẫn mang một tâm tình trân trọng, gắn bó, mang một vẻ tươi sáng, hy vọng, một sắc thái mới mẻ, riêng biệt rất…Cao Bá Quát. Đúng như ông chủ trương: “làm thơ gốc vẫn ở tâm tình thi sĩ"  ( xem bài  Cao Bá Quát : Tim Vẫn Say…) Nghĩ thế nào, cảm thế nào ông viết ra ngay, không do dự, làm dáng. Bởi thế đề tài “tự quân chi xuất hỹ”, người ta đua nhau khởi hứng ngâm vịnh như một trò tiêu khiển, thì ông gửi gấm bao nhiêu ân tình và ẩn tình của riêng mình. Chiếc gương nhỏ là vật kỷ niệm có thật, vợ ông bỏ vào hành lý khi ông ra đi. Nó có ý nghĩa của tin còn một chút này. Trong bài “Từ Biệt Người Nhà” (Dữ Gia Nhân Tác Biệt) ta bắt gặp cái gương nhỏ đó. Ông viết: “cách biệt đã lâu ngày mà cái gương nhỏ ngày xưa vẫn còn gói kín. Buồn quá, buồn như mất xác không thành bóng để làm bạn với ngọn đèn lẻ loi le lói.”

 Nại biệt hữu giam tàng cửu kính

 Công sầu vô ảnh bạn cô đăng

( Mảnh gương còn gói hồn người
Ánh đèn rã rượi bóng đời biệt tăm)
Mảnh gương nhỏ đó bây giờ ông mang nó vào tù, có nghĩa là ông sẽ gói thêm một lần giấy gói. Hình như càng gói kín, mảnh gương càng chiếu sáng lung linh. Tình bà cách biệt càng làm ông thao thức. Thân ông như cánh hạc lẻ loi soi vào gương thấy bóng thời gian vời vợi. Cánh hạc trong tù. Cuộc đời nhốt gió. Tình trăm năm không trọn nghĩa bởi vì đâu?
Hai bài Ký Hận là để bày tỏ mối ẩn tình của Cao Bá Quát. Bài thứ I ông viết: Thân phận như ngọn cỏ bồng đứt gốc, như bông tơ bay tơi tả trong gió đời. Lòng đau đớn về hoàn cảnh chia cách thường lảm nhảm như dối dăng vĩnh biệt. Con hạc lẻ loi vẫn không quên bóng trong tấm gương xưa. Núi ơi núi ơi! Sao nét mi buồn ẩm đục xa xăm! Ta viết chữ HẬN mà lòng đau bật máu. Hồn ta chết lặng trong chén rượu chia ly. Ôi từ ngày cách biệt, đã bao nhiêu nắng gió mưa sương, xóm làng ảm đạm.

KÝ HẬN I

Đoạn bồng phi nhứ lưỡng vô căn
Tích biệt tần đề vị tử ngôn
Độc hạc bất tằng tiêu kính ảnh
Viễn sơn hà sự phá mi ngân
Thư thành hận tự không đề huyết
Tửu túy ly bôi tức mộng hồn
Liệu đắc lữ đình phân thủ hậu
Kỷ hồi phong vũ ám tây thôn

GỬI NIỀM ĐAU I

Ngọn cỏ bồng tơ bay đứt gốc
Đời lê thê bối rối trối trăn
Lẻ loi bóng hạc đăm đăm
Gương xưa núi mới xa xăm mi gầy
Viết chữ “hận” khóc đầy bụng máu
Nhắp rượu cay chìm đáy mộng say
Từ ta ngày ấy phân tay
Phương trời mưa gió những đầy gió mưa

Bài thứ II vẫn da diết lãng mạn:  Đời ta chỉ vì chút danh Nho mà bị trói buộc trong cõi người. Lại còn sợi tơ tình vương vấn, càng thấm thía lúc phân ly. Thế đấy, cái ấy như thói quen không bỏ được. Tình đôi ta lồng lộng, lòng đôi ta đã thấy nhau như tấm gương soi, nhưng biết làm thế nào hỡi em, khi đời ngăn cách. Nhìn bóng hoa vàng đẫm sương tưởng như từng giọt lệ em đã tràn ngày trước. Bóng nhạn trắng kêu trước gió, tưởng như tiếng em xưa. Mưa gió mùa thu, lá rơi mây xám, dằng dặc bao mối u tình. Không nỡ đem mối sầu riêng này mà giăng lên khắp chốn giang thành.

KÝ HẬN II

Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh
Cánh chước ly tư nhất đoạn tình
Kết tập vị trừ ưng nhĩ nhĩ
Si tâm tương chiếu nại khanh khanh
Hoàng hoa sương lý tha thời lệ
Bạch nhạn phong tiền cựu lữ thanh
Hàn điệp thu vân cô hạn sự
Bất kham đề oán mãn giang thành

GỬI NIỀM ĐAU II

Vẫn đã biết nho danh ràng buộc
Lại thêm tình thân thuộc chia xa
Cuộc ta quen thói cũng là
Cuộc em thơ dại biết là làm sao
Hoa vàng sương tưởng bao lệ ướt
Nhạn trắng kêu sước gió tiếng em
Mây thu lá đổ ruột mềm
Sầu riêng ta chẳng nỡ giăng lên khắp giang thành

Cả hai bài thơ đều chân thật, đằm thắm chứa chan và lãng mạn. Cùng một giòng thơ đó, ở một nơi nào đó, một lúc nào đó, Cao Bá Quát đã làm bài:

TRỆ VŨ CHUNG DẠ CẢM TÁC

Tế vũ phi phi dạ bế môn
Cô đăng minh diệt tiễu vô ngôn
Thiên biên chinh khách khuê trung phụ
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn

Phải là người tình nghĩa thâm trọng lắm thì gió mưa, nhất là gió mưa dầm dề suốt đêm mới đóng cửa ngồi buồn bên ngọn đèn leo lét không nói năng gì. Hỡi ơi cái lặng thinh là cái muốn nói vô cùng. Một người đang trên đường lữ thứ, hiu hắt phương trời. Một người khóa kín lẻ loi trong khuê phòng quạnh quẽ. Hai khung cảnh, một tấm lòng. Đó là lòng nhớ thương trọn vẹn cho nhau. Gặp cảnh đó, lòng đó, thì cả hai cùng buồn bã xiết bao!

ĐÊM MƯA DẦM CẢM TÁC

Mưa dầm kín cửa đêm rồi
Ngọn đèn leo lét cùng ngồi lặng câm
Người lữ thứ, kẻ âm thầm
Cùng thương cùng nhớ ngấm ngầm xót xa

Đề tài đã cũ, lại gặp những tay tài tình như Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, hay Ôn Như Hầu …xử dụng gần hết chữ, nhưng Cao Bá Quát vẫn không tránh né. Vì đó là lòng ông, tình ông, và đời ông. Cho nên thơ ông vẫn có một âm điệu thật thà riêng biệt đến cảm động.

Đặc biệt bài dương phụ hành ông làm trong thời gian đi quân thứ  chuộc tội ở Mã Lai, Tân Gia Ba. Bài này ông vừa là một chuyên viên thu hình, vừa là diễn viên thi sĩ. Ông tả một thiếu phụ tây phương (có lẽ là người Anh Cát Lợi) mặc áo trắng như tuyết. Nàng ngồi tựa vào chồng, dưới ánh trăng trong sáng trên thuyền nàng. Nhìn sang thuyền Việt Nam có ánh đèn sáng, nàng ríu rít nói chuyện với chồng. ( chắc là nàng nói về cái thuyền lạ, người lạ.) Tay nàng cầm một ly sữa, dáng điệu uể oải. Gió biển thổi rất lạnh về đêm, có lẽ nàng không chịu nổi, nghiêng mình đòi chồng nâng dậy.
Đó là tất cả hình ảnh và động tác, như một khúc phim đen trắng không âm thanh. Chỉ có gió biển là nhạc đệm. Cuối cùng ông buông một tiếng thở dài: Họ đâu biết có một người Việt Nam đang trong cảnh phân ly.

Dương Phụ Hành

Tây Dương thiếu phụ y như tuyết
Độc băng lang kiên tọa thanh nguyệt
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì
Dạ hàn vô ná hải phong xuy
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly

Cả bài thơ lại chỉ để nhớ thương người trăm năm nơi quê nhà ngóng đợi. Đó là cái tình ẩn trăm năm hơn một lần hò hẹn mà cứ mãi chia xa. Bài thơ còn cho ta thấy cái nhìn của Cao Bá Quát về người ngoại quốc tây phương không phải là cái nhìn nghi kỵ. Nó cũng cho ta thấy tính khí ông rất khoáng đạt trước cảnh âu yếm công khai của hai vợ chồng người lạ.
Thiếu Phụ Tây Dương

Áo thiếu phụ trắng phau như tuyết
Tựa vai chồng trăng biếc đêm say
Ánh đèn thuyền Việt lung lay
Liếc sang ríu rít nàng lay áo chồng
Ly sữa ngọt tay hồng uể oải                         
Gió căm căm biển phả rùng mình
Nàng đòi chồng đỡ thân hình
Bỗng ta trơ trọi trong tình biệt ly

Thơ văn Cao Bá Quát dành một chỗ đứng rất trang trọng cho tình nghĩa gia đình. Gia đình là đơn vị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Khác với Tây Phương lấy cá nhân làm đơn vị, Xã hội Việt Nam lấy gia đình làm đơn vị, bắt đầu từ cặp đôi. Điều này rất phù hợp với huyền sử dựng người dựng nước của ta. Khi người con trai hay con gái đến tuổi trưởng thành sẽ được ra ở riêng, không còn ở chung với cha mẹ anh em nữa. ( Ta nói tắt là “ra riêng”). Cha mẹ sẽ cấp cho một số vốn cần thiết tùy theo hoàn cảnh gia tộc. ( ngày xưa thường là cho bao nhiêu ruộng đất: mấy mẫu, mấy sào…) Trai hay gái thành thân rồi phải tự lực canh sinh. Từ đây họ chính thức là đơn vị của xã hội. Tập tục này có từ nghìn xưa, và không hề thay đổi. Câu thành ngữ: “vợ chồng như đũa có đôi” đã nói lên cái định nghĩa về một đơn vị kép của xã hội Việt Nam. Ta hay đếm “một đôi” hơn là đếm một. Chữ đôi mang ý nghĩa đặc thù của dân tộc tính. Trong mâm cơm có nhiều đôi đũa, nhưng chỉ có một đôi đũa cả. Điều đó cũng xác định được tập tục truyền thống, trật tự xã hội, và ý nghĩa nhân sinh của ta. Chữ đôi là sự khơi mở giòng đời. Thuận với thiên nhiên, và bản tính dung hòa của người Việt. Cũng như ta thường tự hào là con Rồng cháu Tiên. Chữ đôi còn có nghĩa là chẵn. Cho nên người Việt hay tính chẵn, tròn, vuông, chứ không chịu sự phá lẻ. Khi hai vợ chồng mà một người chết sớm ( hoặc ly hôn là rất hiếm) phá lẻ ra, thì kẻ còn lại tất đau buồn. Sự đau buồn này, ngoài vấn đề tình cảm, còn là sự mất mát trong đơn vị xã hội. Từ đây, đơn vị xã hội đó khấp khểnh như đũa chiếc. Kẻ còn sống một mình có thể sống vì nhiệm vụ, nghĩa vụ, hay vì hoàn cảnh hay lý do nào đó, nhưng vẫn hoài bão cái ngày cuối đời, được trở về đơn vị gốc. Cho nên trong bài thơ “Khóc Vợ” của Tú Mỡ mơi có câu: Bà về trước, tôi về sau”. Trước và sau, mở và khép, đó là tất cả ý nghĩa của một đời sống riêng biệt Việt Nam. Và chỉ có Việt Nam mới có được những lời lẽ thâm tình thống thiết như câu đối của Phan Bội Châu làm khi vợ chết:
Ba mươi năm cầm sắt khéo xa nhau, mưa sầu gió thảm, chỉ bóng làm chồng, ngồi ngó trẻ con rơi lệ nóng.
Dưới chín suối thân bằng như hỏi đến, lấp biển dời non, nào ai giúp bác, chỉ còn mình lão múa tay không.
Còn hình ảnh bi hùng nào hơn hình ảnh một tay lão trượng vẫn vũ lộng thanh kiếm chống xâm lăng, cứu nước và dựng nước, với tâm tình đơn lẻ trầm trọng của sự vừa mất đi đơn vị gia đình? Hình ảnh đó ta cũng thấy nơi Cao Bá Quát, một thân trượng phu còn tràn đầy nội lực, còn vững tay kiếm trong trận chiến tư tưởng cách mạng con người, nay bỗng hoàn toàn cô độc vì người bạn trăm năm đã ra đi. Có lẽ hoàn cảnh của Cao Bá Quát còn bi phẫn hơn nữa, bởi cha ông chết chưa đầy năm, mẹ ông vừa đau ốm dai dẳng chưa lành, mà vợ ông bỗng lại qua đời. Tai họa đến với ông như bức bách, như thách thức. Ông thấy giữa sống và chết là hai phương trời khác biệt và cách biệt, cũng như hồn và xác. Ông đã từng khóc chị, khóc con, khóc bố, bây giờ là khóc vợ. Nước mắt ông tuôn ra không biết cho ngày xưa, cho bây giờ, hay cho ngày sau. Cái đau đớn cùng cực của ông có lẽ là sự vĩnh viễn chia xa trong khoảng trời đất bao la còn lại, một mình ông từ nay phải chiến đấu trong cô độc. Phải chăng đó là sự sắp đặt của hóa công? Cái cố tình của định mạng? Trước và sau, mở và khép, tại sao ông lại chỉ có một mình?

ĐIẾU NỘI

Phụ vong tài bát nguyệt
Mẫu bệnh dĩ kinh tuần
Huống tử khuê trung phụ
Phục vị tuyền hạ nhân
Tử sinh hồn dị biệt
Tân cựu lệ nan phân
Tạo vật cố vi giả
Du du thử nhất thân

KHÓC VỢ

Cha mất chửa đầy năm
Mẹ đau trải cả tuần
Tới giờ về chín suối
Lại chính bạn chung chăn
Sống thác hồn chia dễ
Trước sau lệ khó phân
Trời xanh sắp đặt thế
Mờ mịt tủi cho thân
(bản dịch của Đào Mộng Nam)

Một bài thơ khác cùng nhan đề:

ĐIẾU NỘI

Lệ kết hàn băng lệ vị tàn
La y huống phục lệ lan can
Phương tương bạch thủ kì giai lão
Ninh quán thanh niên cự tác quan
Hoa lạc dĩ vô đăng hạ chiếu
Nguyệt minh duy hữu mộng trung khan
Thương quân bất cảm cao thanh khốc
Chỉ khủng quân tâm bất tự an

KHÓC VỢ

Lệ đọng thành băng lệ chửa tan
Áo tơ lại đẵm lệ tuôn tràn
Mới vừa tóc bạc nguyền chung sống
Sao nỡ đầu xanh vội cách ngăn
Hoa rụng ánh đèn nào chiếu sáng
Trăng soi hồn mộng mãi băn khoăn
Thương người không dám hờ to tiếng
Vì sợ lòng người chẳng được an
(bản dịch của Đào Mộng Nam)


tường vũ anh thy 1982 (trích Cao Bá Quát: Giữa Hồn Thiêng Sông Núi, Ức Trai xuất bản 1985 )



Không có nhận xét nào: