điêu khắc

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Cao Bá Quát: thơ tiễn




Không rượu, tiễn bạn đi nhậm chức ở Thường Tín

Buổi chiều quê cũ – " quê cũ chiều tà hiu hắt đợi "(1) đôi bạn trân trọng và bùi ngùi chia tay. Không nhắp chén quan hà, nhưng vẫn khà men tình tổ quốc. Ráng chiều nhuộm thẫm những con đường quen thuộc ở Hà Nội, Nguyễn Trúc Khê, bạn sẽ đi ra khỏi những con đường ấy, mang theo phần linh hồn của tôi; bởi vì bạn biết đấy, đường Việt Nam đang tối, nhưng lòng trai Việt Nam không tối. Tôi không có rượu để tiễn bạn lên đường, nhưng lòng tôi đầy men rượu. Tôi đang bị bệnh tình hành hạ, không đủ sức bước theo bạn thêm một quãng đường nữa, nhưng trí tôi chắp cánh bay cùng bạn khắp vạn nẻo đường đất nước.
Kể từ lúc bạn cởi áo vải thô theo việc văn thư, buông cày viết chữ, ra gánh vác xã hội, bạn đã từng là quan huyện nhiều nơi; trước ở phủ Thạch An, sau đến huyện Phù Cừ. Thạch An lắm núi thì bạn vui với núi. Phù Cừ nhiều sông, thì bạn vui với sông.(2) Đó là Đạo. Thói thường nhân dân ai cũng muốn an cư lạc nghiệp, yên phận làm dân.Chính quyền cai trị chỉ cần đừng sách nhiễu dân thì mọi việc đâu vào đấy. Mấy ai muốn lôi thôi rắc rối vào thân. Hai huyện ấy tuy công việc khác nhau, nhưng chính sách giống nhau (nhà nước thống nhất từ lâu rồi mà!). Nếu bạn nắm vững được công tâm thì chỉ nằm không mà dân vẫn an. Thuật trị nước, gốc ở Đạo.
Nay nhà nước bổ bạn về làm tri phủ Thường Tín, hẳn bạn đã rõ cái khó cái dễ, điều trọng điều khinh. Thường Tín là nơi giáp đầu ba tỉnh Hà Nội, Nam Định và Hưng Yên. Lính tráng, cán bộ, thợ thuyền sống lẫn lộn với dân chúng. Đấy là mầm mống khó khăn. Phần nhiều những nhà khoa bảng đều xuất thân thanh bạch. Trong khi các bậc hào trưởng làng xóm khóm phường đa số là thành phần cũ, có nhiều tuổi đảng. Bên trong thì phải đối phó với bọn sai dịch mọt già. Bên ngoài lo lũ tham quan hối lộ tham nhũng. Trên đã sợ búa rìu kìm kẹp của nhà nước. Dưới lại lo dư luận nhân dân phán xét rình mò chụp mũ. Tuy cái khó nó bó cái khôn, nhưng không phải vì thế mà thúc thủ. Ở huyện Ứng Hòa ngày trước, bạn chúng ta là Huyện Phan đã tạo được nhiều tiếng thơm còn lưu truyền trong quần chúng. Bạn là người sáng suốt, thành thạo và có tâm đạo, tôi đâu dám nói nhiều. Ba điều Thanh, Thận và Cần, bạn ngồi đâu hẳn là nó phải ở đó. Bảo vệ dân, giúp đỡ dân; hay là kìm kẹp dân, bòn rút dân; bạn biết rõ thế nào rồi. Làm chim loan chim phượng để mọi người cùng ưa; hoặc làm chim diều chim quạ cho chúng ghét, bạn cũng biết đằng nào khó hơn.
Nay tôi gắng viết mấy giòng để tiễn bạn lên đường. “Đường đi khó, nhưng không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”(3) Điều tôi muốn nhắn với bạn là ở phủ Thường Tín vốn có nhiều danh tài. Trong đó, Chu Văn An và Nguyễn Trãi là hai nhân vật siêu đẳng, tôi vẫn hằng kính trọng. Hỡi ơi, chí làm trai ở trong trời đất không làm được việc xé gan như Tỉ Can, bẻ cột như Chu Vân, để giữ mối cương thường, làm vẻ vang tổ quốc, lại chịu khoanh tay nhìn bày quỉ đỏ lộng hành nhiễu loạn nhân dân, thì mai kia khi tuổi già áo mũ ban ngày về làng chỉ tổ làm bẩn quê hương.(4)
Chí làm trai cũng không làm nổi việc mài mực đầu gươm, đối đầu tư tưởng với loài quỉ khát máu, truyền hịch định bốn phương; mà cứ sớm tối loay hoay lo chuyện nhà cửa xe cộ, sắm sửa áo quần trang sức; thì đến lúc tuổi già chỉ gục đầu vào vợ con mà chết hết cả khí phách trượng phu.
Hỡi ơi! Những hạng người đó, giả sử có xuống suối vàng gặp hồn các cụ, thì cũng mặt dày môi mỏng, trống ngực thình thình, hồn phách rũ rượi, nào dám ngó lên.
Tôi nghĩ đến chuyện này lại thấy buồn ghê gớm! Tôi đã già rồi còn mong gì nữa! Hỡi ơi, trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn.(5)
Bạn về đến Thường Tín, hãy đến thăm làng Nhị Khê và làng Cung Hoàng (6) vào đền thờ hai cụ, cho tôi, vì tôi, rót lên chén rượu, thắp lên nén nhang, lạy xuống hai lạy, rằng tôi trời đất mang mang vẫn hằng mong mỏi không hổ với khí tiết một đời!
Bạn cũng cho tôi gửi lời thăm Lê Hy Vĩnh.(7) Bảo tôi vẫn khỏe, chưa chết, chỉ mắc chứng điên.Ôi thiên hạ ai cũng tỉnh, một mình ta điên!
Bài thơ kết thúc như một bài quyền. Bấy giờ có lẽ vào khoảng những năm 1850-1853, Cao Bá Quát về Quốc Oai rồi lại về Hà Nội. Ông sống vừa hối hả vừa lãng đãng và bí ẩn. Bí ẩn như những con châu chấu quái gở, một buổi chiều thu bỗng ồ ạt kéo vào cắn nát đồng cỏ Mỹ Lương không một lời báo trước.

Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín

Cố nhân phân thủ Hà Thành lộ
Thiên lý đăng xa nhãn như cố
Bệnh trung vô tửu tống quân hành
Vọng đoạn giang đình thụ sắc mộ

Thủy quân thích hạt tòng bạ thư
Tiền vi Thạch An hậu Phù Cừ
Thạch An giai sơn dữ sơn lạc
Phù Cừ giai thủy dữ thủy cư

Nhân chi dục an các kỳ tính
Ngã dĩ vật nhiễu hành hữu dư
Lưỡng bang sự dị chính nhược nhất
Ngọa nhi trì chi hà dụ như

Tức kim bị mệnh lai tư địa
Giản yếu hề cư thị quân ký
Văn nhã danh hương cổ hữu vân
Tài phú sở mệnh kim tắc dị

Tam tỉnh tiếp liên giang dã gian
Bách công thác xử binh dân lý
Y quan chi tộc bán thanh lưu
Tỉnh ấp chi hào đa cố lại

Nội ngu đố dịch ngoại tham quan
Thượng úy vương chương hạ thanh nghị
Ngô tào Phan doãn hữu di âm
Tạc nhật Ứng Hòa do cận sự

Tử chân luyện đạt cánh hà ngôn
Sĩ hoạn tam qui yết tọa gian
Bảo chướng kiển ti tòng thức triệt
Ưng chiên loan phượng định thùy nan

Bả bút tặng quân thỉnh quân biệt
ức ngã nhân chi hoàn hữu thuyết
thử bang cổ vị phú danh nhân
Tiều Ẩn Ức Trai đĩnh song tuyệt

Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường
Tọa thị đương đạo kiêu sài lang
Bạch đầu trú cẩm ô cố hương
Phục bất năng thuẫn tỵ ma mặc phi hịch định tứ phương
Đê đầu oải ốc khí bất xương
Mộ niên tử chẩm nhi nữ bang
Túng nhiên địa hạ qui lai kiến nhị tẩu
Diện hậu tâm quí thần thảm thương
Tọa niệm thử sự thành khái khang
Y ngô lão hỹ hà sở vương
Quân lai thỉnh phóng Nhị Khê dữ Cung Hoàng
Đăng nhị tẩu chi từ đường
Vị ngã tái bái khuynh tiêu tương

Thả báo cố nhân Lê Hy Vĩnh
Đạo ngã hảo tại bất tử duy mệnh cuồng.


Tiễn bạn đi nhậm chức ở Thường Tín

Đường Hà Thành chia tay bạn cũ
Nghìn dặm xe đỏ mắt từ đây
Một màu hiu hắt cỏ cây
Rượu đâu! Không rượu gượng đau tiễn người

Kể từ thuở bạn mang quan tước
Trước Thạch An sau đến Phù Cừ
Thạch An lắm núi cũng ừ
Phù Cừ sông nước cũng mừng nước sông

Bản tính người chỉ mong yên ổn
Đừng nhiễu dân việc khó cũng xong
Ngồi mà mọi sự hanh thông
Chuyện tuy khác huyện nhưng chung một triều

Theo lệnh trên nay ra đất ấy
“Trọng” hay “Khinh” bạn thấy ngọn ngành
Xưa, đây văn vật đã thành
Nay “kinh tế mới” phải rành sáu câu

Ruộng sông lạch nối liền ba tỉnh
Lính với phu quẩn giữa dân lành
Khóm phường “anh chị” vẫn đành
Nửa nhà công chức đã thành nếp xưa

Trong sâu mọt ngoài thì tham nhũng
Dưới miệng dân trên búa triều đình
Huyện Phan được tiếng chuyên cần
Ứng Hòa huyện trước cũng gần đây thôi

Bạn sáng suốt tất còn phải nói
Gối đầu giường chữ Thận - Thanh- Cần
Vì dân khác với vồ dân
Làm chim loan phượng khác thân quạ diều

Tiễn bạn có đôi giòng thay rượu
Ấy tiện đây tôi nhắn điều này:
Danh nhân Thường Tín có đầy
Chu An, Nguyễn Trãi bậc thầy thế gian

Chí làm trai ở trong trời đất
Không xé gan bẻ cột giúp đời
Khoanh tay nhìn quỷ giết người
Mai về mũ áo bẩn đường quê hương
Cũng không chịu đối đầu tư tưởng
Bút mài gươm quỷ dám ho he
Loanh quanh sớm tối nhà xe
Chết già gối vợ chèo khoeo xứ người
Xuống suối vàng gặp hồn hai cụ
Còn mặt nào ngẩng được lên sao
Lòng tôi nghĩ ngợi xôn xao
Thân tôi già lão lao đao mất rồi

Bạn nhớ đến đền thờ hai cụ
Một Nhị Khê một ở Cung Hoàng
Thay tôi thắp nén hương vàng
Lạy thêm hai lạy cho lòng tôi say

Cũng gửi lời chào Lê Hy Vĩnh
Lâu lắm rồi không có tin nhau
Bảo tôi chẳng khỏe chẳng đau
Chết thì chưa chết nhưng điên dài dài.


tường vũ anh thy 1982
(trích trong Cao Bá Quát Giữa Hồn Thiêng Sông Núi - Ức Trai xuất bản 1985)

Chú thích:
(1) thơ Thôi Hiệu có câu:nhật mộ hương quan hà xứ thị / yên ba giang thượng xử nhân sầu.(bài Hoàng Hạc Lâu) - Đào Mộng Nam dịch cho ngày thân phụ anh qua đời : quê cũ chiều tà hiu hắt đợi / trên sông khói sóng gởi sầu thương.
(2)  Thạch An : tên huyện thuộc Cao Bằng / Phù Cừ: tên huyện ở Hưng Yên
(3)  Ý văn Nguyễn Bá Học.
(4) Tuy ta biết tích Tỉ Can mổ gan và Chu Vân bẻ cột, đều để chỉ người trung nghĩa, dám quên thân mạng, can gián, hoặc thẳng thắn bênh vực điều thiện, như Chu Văn An dâng “thất trảm sớ” đòi chém những  tham quan ô lại quanh vua Trần Dụ Tông (1341-1369). Nhưng điều đáng bàn ở đây là câu thơ: Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường. Trong bài “Nam Phương Ca Khúc” mà ông Nguyễn Bá Trác phóng tác thành bài “Hồ Trường” cũng có câu thơ này. Theo Nguyễn Bá Trác thì ông đã nghe và ghi lại bài Nam Phương Ca Khúc ở Thượng Hải vào khoảng năm 1912 do một người bạn quen hát bằng tiếng Quảng Đông nhân một cuộc rượu. Mở đầu bài hát này là câu “Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường.” mà Nguyễn Bá Trác dịch thành:” Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường.” Bài Nam Phương Ca Khúc  không biết tên tác giả và cũng không biết có từ bao giờ. Ta có thể ngờ tác giả nào đó đã mượn thơ Cao Bá Quát để làm bài “Nam Phương Ca Khúc”. Hoặc tác giả bài ca là chính Cao bá Quát, hay bạn đồng chí của họ Cao. Đây là một đề tài cần được tham khảo thêm.
(5)  Nguyễn Du trong bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang có câu:                                             
                           Loạn thế nam nhi tu đối kiếm
                           Tha hương bằng hữu trọng phân khâm
                                ( Gươm thời loạn thẹn cho ta
                                Tha hương bằng hữu phân xa ngậm ngùi)

(6)  Làng Cung Hoàng có đền thờ Chu Văn An (Tiều Ẩn). Làng Nhị Khê có đền thờ Nguyễn Trãi (Ức Trai). Cả hai đều ở phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông.
(7)  Bài Đoản Ca Hành, Cao Bá Quát làm ở nhà bạn trong một cuộc rượu có câu:
Vị Phủ năng ẩm nhật bách bôi
Phương Đình năng thi thi tức giai
Trương phu kiến nhân vi bất nhị
Hy Vĩnh thanh khan thiên hạ tài
(Bạn Vị Phủ ngày hàng trăm chén
Bạn Phương Đình thơ khéo dị thường
Trượng phu rất mực khiêm nhường
Là Lê Hy Vĩnh tỏ tường tài ai)
Nguyễn Trúc Khê, và tất cả đều là bạn bè thân của Cao Bá Quát .




Không có nhận xét nào: