điêu khắc

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Nguồn gốc & ý nghĩa Tết Trung Thu




 
 

Khi khảo về Tết Trung Thu, hầu hết đều cho là bắt nguồn từ Trung Hoa. Tuy ta chưa có tài liệu, nhưng tìm vào phong tục, tập quán dân gian vẫn có thể nhận ra Tết Trung Thu của Việt Nam hoàn toàn khác và có trước Trung Hoa. Tôi viết lại bài này với hy vọng có người có thêm tài liệu và góp ý bổ xung.
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm
Tháng bẩy hôm rằm xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn thóc bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành
Bài ca dao mô tả sinh hoạt dân gian Việt Nam, quanh 12 tháng, một năm, bốn mùa. Đó là sinh hoạt rất xa xưa vẫn tồn tại đến ngày nay. Ta thấy qua 12 tháng có 4 Lễ Tết được kể ra theo thứ tự: Tết ( hay Tết Cả, tên chữ là Tết Nguyên Đán) vào tháng giêng; Tết Đoan Ngọ (gọi nôm là Tết Giết Sâu Bọ) vào tháng năm; Tết Trung Nguyên (tức  Lễ Vu Lan ) vào tháng bẩy, và Tết Trung Thu ( hay Tết Trông Trăng, Tết Trẻ Em) vào tháng tám.
Riêng Tết Trung Nguyên ( truyền vào từ Ấn Độ) là mang nội dung tôn giáo. Ba Tết còn lại do truyền thống dân gian, biểu tượng của nền văn-hóa-đầm-lầy-lúa-nước.
Do ảnh hưởng địa lý, khí hậu, người Việt sinh sống ở những vùng đất thấp, đầm lầy. Quanh năm họ trồng trọt, cày cấy, chăn nuôi và chài lưới. Lễ Tết là những dịp nghỉ ngơi, vui mừng, tạ ơn, và chào đón một mùa xuân mới (Tết Cả); là dịp phòng ngừa bệnh tật, hòa hợp với thiên nhiên, giữ gìn môi sinh (Tết Giết Sâu Bọ); và là dịp đợi chờ kết quả, lo cho con trẻ, cùng vui với trăng rằm (Tết Trung Thu). Cũng do ảnh hưởng giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ, Trung Hoa, cùng các nước láng giềng trong khu vực mà sinh hoạt văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của người Việt mang những nét chung chung của Đông Á, nhưng bản chất Việt Nam có nhiều dị biệt độc đáo. Lễ Tết là một trong những sự dị biệt độc đáo đó.
Ngay chữ "Tết" là âm Việt cổ đã chứa đựng những khác biệt và những ý nghĩa độc đáo của người Việt. Chữ Nôm viết "Tết" là mượn âm "tiết" của chữ Nho, vừa đọc là tiết, tết, tét, tít, tịt  (Bảng Tra Chữ Nôm, Ủy Ban Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr.244) tùy theo ý nghĩa của câu văn, sự việc. Do đó, Tết vừa có ý chỉ thời gian (tiết), vừa có ý chỉ hành động dâng biếu tạ ơn (sống tết, chết giỗ) lại vừa có ý gắn bó trung thành (sêu tết). Ta có động từ "tết" có nghĩa là đan, bện, kết. Tuy chữ viết có khác, nhưng tiếng Việt quan trọng ở âm (giọng đọc) chứ không ở mặt chữ. Lê Quý Đôn trong “Vân Đài Loại Ngữ” cũng viết: “Trung Quốc viết chữ, nghĩa lý ở chữ, không ở âm; nước ngoài chép âm, nghĩa lý ở âm, không ở chữ”(tr.279) Vậy âm "tết" của ta thật nhiều ý nghĩa, chứ không đơn thuần như chữ "tiết" của Trung Hoa. Chữ “Tết” đứng một mình bao giờ cũng được hiểu ngầm là Tết Cả, Tết Đầu Năm. Nay khảo về Tết Trung Thu, là tết thứ tư theo truyền thống Việt Nam, ta cũng cần biết sơ qua Lễ Tiết Trung Thu của người Trung Hoa.
LỄ TIẾT TRUNG THU Ở TRUNG HOA
Nguồn gốc Lễ Tiết Trung Thu ở Trung Hoa được lưu truyền như sau: Nhà tiền Hán do Lưu Bang lập ra được 210 năm thì mất vào tay Vương Mãng (năm 8). Mãng là tay cách mạng, cũng giống như Hồ Quý Ly của Việt Nam sau này, không ổn định được lòng dân vẫn còn nhớ nhà Hán. Tôn thất nhà Hán là Lưu Diễn cùng em là Lưu Tú tôn Lưu Huyền (cùng là cháu sáu đời vua Cảnh Đế) làm Hán Đế, khởi binh đánh Vương Mãng ở Hà Nam. Tục truyền rằng có lần quân Lưu Tú bị quân Vương Mãng vây rất nguy ngập. Tú cho người cầu viện. Nhưng viện binh chờ mãi chưa thấy mà lương trong thành đã cạn sạch. Quân lính đào hết củ nọ rễ kia để ăn cũng hết. Lưu Tú lấy làm lo sợ, bèn thiết đàn cầu khẩn trời đất xin được lương nuôi quân. Người ta tin rằng nhờ lòng thành của Lưu Tú, và nhất là nhờ chân mạng đế vương, mà hôm sau trời ban cho một loại củ ăn rất bùi. Đó là củ khoai môn. Quân sĩ đào được loại khoai này ăn nhiều quá đâm ra sình bụng. Báo hại Lưu Tú lại phải thiết đàn cầu khấn lần nữa. Lần này trời cho một loại quả vừa chua vừa ngọt. Đó là trái bưởi. Quân sĩ kiếm được trái bưởi ấy thích quá ăn đẫy vào. Nhờ thế lại trị được bệnh sình chướng và táo bón. Bấy giờ vào đúng tiết thu phân, rằm tháng tám. Quân Lưu Tú lai rai ăn khoai môn với bưởi chờ viện binh rồi đánh lui được quân Vương Mãng ở Côn Dương, Hà Nam. Đây là trận chiến quyết định, oai danh anh em Lưu Tú nổi như sóng cồn. Lưu Huyền nghi kỵ bèn giết Lưu Diễn, phong Lưu Tú làm Phá Lỗ Tướng Quân, hợp cùng quân các nơi đánh vào Trường An, giết được Vương Mãng năm 23. Lưu Huyền lên ngôi đế hiệu là Cảnh Thủy. Ông vua này nhu nhược và nghi kỵ, chẳng bao lâu bị loạn “Xích Mi” giết. Trong khi đó Lưu Tú được lòng dân quân đã lên ngôi hoàng đế vào năm 25 ở Cảo Nam, Hà Bắc; hiệu là Quang Vũ. Việc bình định thiên hạ mãi đến năm 43 mới kết thúc, sau khi Mã Viện thắng Hai Bà Trưng ở Việt Nam. Vua Quang Vũ nhớ ơn trời đất đã cho khoai môn và trái bưởi năm nào để dẫn đến vinh quang bây giờ, bèn ra lệnh làm lễ tạ ơn vào ngày rằm tháng tám. Phẩm vật chính là khoai môn và trái bưởi. Lễ tổ chức hàng năm, truyền khắp dân gian, lâu ngày thành lệ. Về sau người ta mới thêm các loại bánh trái , cùng nghi thức yến ẩm khác để trở thành đại lễ tiết Trung Thu. Tuy nhiên lễ tiết này không bao giờ thiếu khoai môn và trái bưởi.
Đến đời Đường Minh Hoàng (713-741) lễ tiết trung thu trở nên phong phú như ngày nay với hình ảnh tiên nga múa khúc nghê thường v.v.
Vậy lễ tiết Trung Thu ở Trung Hoa có lẽ có từ thập kỷ 40.
TẾT TRUNG THU Ở VIỆT NAM
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Đó là một trong những đặc điểm của Tết Trung Thu ở Việt Nam. Đèn kéo quân là hình thức thu gọn cảnh kéo quân của bà Thiều Hoa, nữ tướng thời Hai Bà Trưng (40-43). Tích này vẫn được diễn hàng năm ở làng Hiền Quan (Tam Thanh) tỉnh Vĩnh Phú. Các đoàn quân kéo nhau lượn hình trôn ốc trước bàn thờ bà Thiều Hoa ngụ ý kéo quân vây thành. Cũng ở Vĩnh Phú, nhiều làng khác tổ chức các cuộc kéo quân thật đánh lẫn nhau vào đêm rằm tháng tám. Trẻ em được làm do thám, ông già bà cả trợ chiến hò reo, thanh niên nam nữ gậy gộc chiến đấu như thật.
Có lẽ đèn kéo quân là một hình thức tưởng nhớ để nuôi chí phục thù của người Việt sau cuộc thất bại của Hai Bà Trưng năm 43. Đèn kéo quân cũng giúp người ta vui Tết Trung Thu trong cảnh nô lệ thời bấy giờ. Tết Trung Thu là tết của trẻ em, người ta cũng muốn nhắc nhở con em của họ những chiến công lịch sử.
Trong lễ Tết Trung Thu có mâm cỗ gồm nhiều thứ trái cây và bánh kẹo. Đặc biệt có bánh đúc to tròn như mặt trăng đổ trên tàu lá chuối. Bánh đúc nhà nghèo chỉ có bột gạo và vôi, nhà giầu thêm nhân dừa, thịt mỡ, đỗ lạc (đậu phộng). Người ta có câu hát ví:
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ mới thương con chồng
(hoặc: mấy đời trọc phú mới thương dân nghèo)
Dịp này trẻ em xem đèn kéo quân, rước đèn chơi trò rồng rắn. Vui với các Con Giống nặn bằng bột nhuộm phẩm đủ màu sắc rực rỡ. Con Giống vừa ngụ ý giống như các con vật thật, vừa có nghĩa là biểu tượng sinh vật thể sẽ sinh sôi nẩy nở mãi mãi. Nghệ nhân nặn các Con Giống thoăn thoắt, chỉ vài phút là đã có con bò, con trâu, con thỏ, con gà, con chim, con cóc v.v. Thật là một loại điêu khắc dân gian thần tình !
Một đặc điểm khác trong mùa Tết Trung Thu là tiếng trống. Trống là dụng cụ âm nhạc đơn giản và phổ biến. Người ta làm các loại trống cơm, trống bỏi cho trẻ em tha hồ gõ múa. Và người lớn cũng chế ra một loại hát đám gọi là “ hát trống quân”
Tháng tám anh đi chơi xuân
Đồn đây có hội trống quân anh vào
Câu hát phổ biến này ngụ ý Tết Trung Thu cũng là tết của mùa xuân tươi trẻ trong lòng người. Hết xuân tới thu, hết thu tới xuân, tức là trong xuân đã sẵn có thu, và trong thu đã sẵn có xuân vậy.
Trước và sau dịp Tết Trung Thu người ta còn diễn trò Múa Rối Nước. Sân khấu là ao hồ hay bến sông. Diễn viên là công trình đẽo gọt trạm đục đan vót của các nghệ sĩ dân gian. Các tuồng tích đủ thể loại đều được đem “xuống” sân khấu nước. Người ta cũng diễn các cuộc chọi trâu, cuộc thi hóa rồng mà cuối cùng cá chép trúng tuyển:
Mồng bốn cá đi ăn thề
Mồng bẩy cá về cá vượt vũ môn
để khuyến khích học trò tin tưởng vào tương lai.
Đêm Tết Trung Thu, người ta phá cỗ trông trăng, kể chuyện Thằng Cuội:
Thăng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
Đó là câu chuyện nửa cổ tích nửa thần thoại về một nhân vật tên Cuội, có công cứu giúp người bệnh tật hoạn nạn và kể cả người chết, đã vĩnh viễn ở trên mặt trăng. Hình như tất cả mọi trò vui, đèn đóm, hát múa, con giống v.v. của các em được phô diễn để tưởng nhớ và làm vui lòng Thằng Cuội đang một mình vời vợi trong trăng.
TẠM KẾT
Như ta biết, tuy Hán Quang Vũ lên ngôi từ năm 25, nhưng phải đến năm 43 mới được coi là bình ổn, và chính sách an tịnh khoan hòa mới được thi hành rộng khắp. Sự kiện dùng khoai môn và trái bưởi trong lễ tiết trung thu có thể có từ năm 25, nhưng chắc chỉ thành đại lễ từ năm 43. Và tôi chắc không thi hành ở Việt Nam vì ở đó đã có sẵn Tết Trung Thu bản địa rồi. Các quan thái thú sau Tô Định, sẽ chỉ muốn an thân, không cưỡng ép dân nhiều. Và sau cái chết của Hai Bà Trưng cùng các tướng soái đồng chí đồng bào, người Việt sẽ đón trung thu  rất ngậm ngùi sau năm 43, hà cớ gì lại còn phải tạ ơn trời đất bằng khoai môn và trái bưởi của binh lính nhà Hán. Do đó ta sẽ thấy:
1-Tết Trung Thu ở Việt Nam đã có từ trước khi Hán Quang Vũ ban lệnh kỷ niệm Tiết Trung Thu năm 23, chiến thắng Vương Mãng.
2-Tết Trung Thu ở Việt Nam là Tết thuần túy của trẻ em và là Tết của nền văn-hóa-đầm-lầy-lúa-nước.
3-Trên mặt trăng là hình ảnh Thằng Cuội, con trâu, cây đa. (chứ không phải Hằng Nga, hay Ngô Cương với cây quế như của Trung Hoa.)
Khác với Lễ Tiết Trung Thu của Trung Hoa, khởi đầu để tạ ơn chiến trận, và rồi được kiện toàn vào thời Đường Minh Hoàng, (một ông vua ăn chơi tửu sắc vô đạo, cướp vợ của con rồi cũng không bảo vệ được người con dâu này.) với trăm cách xa hoa dành cho người lớn có thế có tieenf.


Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

qua chai rượu





qua chai rượu
sự sự thật tươi vui

con đường tơ lụa tươi như mưa
cầm một hạt mưa
đi tìm ngu ngơ tới tương lai 
chỉ để thoa nhẹ như bóng đêm lên môi ai

con đường tơ lụa tươi như nắng
cầm một vạt nắng
đi ngớ ngẩn trong những hàng cây 
máng lên những cành lá
rộn rã cả buổi chiều

tôi là đêm
chi chít những vì sao
cầm một ngôi sao
đi ngơ ngác vào hiện tại
soi thấy mắt ai cười















Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

mưa không rơi trên lá cỏ ở san francisco






truyện ngắn

mưa vẫn rơi trên lá cỏ. Màu đỏ của ly rượu. Màu đỏ của lá phong mùa thu. Màu đỏ tấm áo khoác. Chàng lái một mình ở San Francisco. Cầu Golden Gate đỏ rực trong mưa hoàng hôn. Ánh nắng soi rõ từng hạt. Lấp lánh như ánh sao lấp lánh.
Chàng dừng xe may mắn có chỗ đậu. Thành phố quá nhiều quán rượu. Chàng thản nhiên khoác vai một cô gái Mỹ:
   Tôi muốn mời cô một ly ?
 Dĩ nhiên rồi. Nếu không ông đã không khoác vai tôi.
Cô gái cũng đáp thản nhiên. Miệng cô còn vướng kẹo cao su. Chàng tỉnh táo. Đó là một cô gái tóc vàng còn trẻ lắm. Cô mặc áo khoác đỏ. Ngực cô nở rộ. Mùi thơm của các chất hóa học bao trùm thân hình cân đối. Quày rượu lấp lánh ánh nhạc rock”n roll. Xuông xẻ, nhịp nhàng và cứ thế…Đó là những gì chàng hiểu được ở rock”n roll. Cô bán rượu người Đại Hàn liến thoắng tán tỉnh khi chàng trả tiền ở quày:
 Anh chị có thể mua cho em một ly không? Hôm nay sinh
 nhật em. Em cầu xin một ngày đầy đủ nhất cho em.
Cô gái Mỹ tóc vàng vừa cười vừa quay đi. Còn chàng cầm tờ giấy năm đô la dụi vào ngực cô Đại Hàn:
Chúc mừng sinh nhật cô.
Cảm ơn anh nhiều!
Cô Đại Hàn vừa nói vừa lo tiếp khách khác. Cốc rượu đỏ sóng sánh.
Ông thích cái gì của em ?
Cô gái Mỹ tóc vàng ngửa mặt nhìn chàng cùng ly rượu. Chàng nhìn ngực cô, rồi cười cười:
Không phải cái ngực đâu.
Humm!
Cũng không phải cái ấy đâu.
Humm! Cục cứt!
Hah hah ! Đúng chóc : cục cứt!
Tiếng cười khá to của cả chàng với cô gái làm nhiều người quay nhìn. Họ có thể chỉ là những tình nhân bất chợt trên đường phố. Nhưng họ có những cái nhìn vui vẻ, cởi mở tàm tạm.  Những đôi môi mượt cong cánh hoa đơm sơn màu lộng lẫy. Môi nàng ít thoa son, đôi môi mềm. Chàng đợi nàng ngoài cầu tiêu công cộng. Biển Santa Cruz lúc nào cũng ầm ĩ. Và người đông cũng ầm ĩ không kém. Khi vào cầu tiêu, sẽ có hai con số. Số 1: đi tiểu thôi. Số 2: vừa tiểu vừa tiện. Lâu thế chắc nàng thuộc diện số 2. Chàng kiểm điểm lại cuộc ăn uống: corn dog, pizza, kem, french fried, nước lạnh, bia. Cái gì làm nàng bị tháo dạ? Hah hah hah! có thể là tất cả cũng nên! Ráng chờ thôi. Chàng ngó ra biển. Lâu thế. Có đến hơn nửa giờ rồi. 

Đêm Thứ Năm ở Reno, sòng bạc không đông. Chàng đánh bài tà tà với ly Cognac. Cái cảm giác nặn bài vẫn quyến rũ chàng. Cả cảm giác sờ nắn các đồng chip, rồi quyết định đặt cửa. Hơn cả giờ qua chưa có bàn nào gay cấn. Chàng đốt thuốc lá, nheo nheo mắt, tợp hớp rượu, rồi bất ngờ đi tiền gấp đôi ván trước. Cú đi không tính toán theo thói quen làm chàng hơi hồi hộp. Chàng nhìn ông nhà cái chờ chia bài. Ông ta đang ngước nhìn ai đó đon đả mời chào. Một cô tóc dài vàng óng khẽ ngồi xuống ngay cạnh chàng.
Ông sao rồi?
Cô gái vừa mỉm cười nói với chàng vừa lấy tiền chip đặt cửa. Chàng cũng mỉm cười gật đầu nhìn cô gái. Sao lại có cô bé da trắng nhỏ nhắn trẻ đẹp đến thế. Chuyến này chắc mình chết. Hai lá bài đã được chia. Chàng lật lá thứ nhất trúng ngay con sì cơ đỏ rực. Cô gái reo vui khe khẽ, và nghiêng đầu xem con bài kế tiếp chàng đang nặn rất từ từ. Thật không thể ngờ: đó là con đầm cơ. Cô buột miệng:”black jack!” Chàng ngả bài mình ra, rồi cũng nghiêng đầu xem bài của cô gái. Cô chỉ được 13 điểm. Nhưng con bài ngửa của nhà cái là số 6. Cô gái không tỏ vẻ thất vọng, đôi con mắt xanh trong veo nhìn chàng như có ý hỏi mà không hỏi. Cả hai ngầm đồng ý giữ nguyên số 13. Những sợi tóc vàng của cô vương lên mặt chàng gây cảm giác rạo rực. Nhà cái hoắc! Cô phục vụ đến. Cô gái hỏi chàng:
Ông uống gì vậy?
Cognac.
Tôi cũng muốn thử.
Được thôi. Làm ơn cho hai Rémy Martin v.s.o.p.!
Đêm ấy là một đêm trắng và đỏ. Trắng là chàng không hề chợp mắt. Đỏ là chàng vừa được bạc vừa được tình. Cô gái gốc Pháp lai Do Thái tên Nicky, 23 tuổi, giờ là người Mỹ, làm việc ở Peppermill. Cô đẹp như một bông hồng hoàn hảo. Cô hồn nhiên kể chuyện đời. Thú vui của cô là đánh bạc, uống rượu, và…chọn đàn ông. Cái lão kiến trúc sư xây Eldorado, cả lão thị trưởng Reno. Em biết nhiều người Á Đông, nhưng anh là người Á Đông đầu tiên em chọn. Tại sao hả? Vì nhìn cách uống rượu hút thuốc đánh bạc của anh ra vẻ tay chơi; nhưng mặt anh, cả con người anh có một cái gì khác mà em muốn biết. Anh nói sao? Bây giờ em biết gì về anh ấy à? Anh là một người đàn ông. Đủ chưa? Anh chính là người đàn ông.

Hình như mưa không còn rơi trên lá cỏ. Chàng hỏi cô gái Mỹ tóc vàng:
Cô có muốn đi ăn tối không?
Có.
Ổ đâu?
Buckeye.
Bên Sausalito ấy à? Thịt bò nướng ngon tuyệt. Thế cô đã chọn tôi à?
Dĩ nhiên rồi. Nếu không em đâu có để anh khoác vai. 

chàng nghe đâu đó vọng lên bài 99 miles from L.A. với tiếng hát của Julio Iglesias.





Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

không và có







không cần phải tiên tri
mới biết hoa sẽ tàn
nhưng cần phải tiên tri
mới biết hoa sẽ nở
cáí mất đã không còn
cái đến được nhận ra
quá khứ trôi như nước
tương lai tràn như mây
đong đầy ta là hiện tại

muốn thoát ra thì hãy bước vào



Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

ngụm rượu chiều tháng tư







sóng dọc
cỏ mu rùa
hang sâu về đến biển
trang điểm nhiều hạt châu
mưa ngang rả rich
ngụm rượu chiều tháng tư
đứng ở bên lề thế gian
mưa căng phổi
thổi bay những mảnh đời
nổi trôi ngoài giới hạn




Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

mời đọc lại

dấu chấm của cuộc chiến : 30-4-1975

. truyện ngắn


Tôi đi bên cạnh người đại tá. Con đường vắng, đầy hoa lá. Rừng núi Santa Cruz tràn ngập mùi ngái nồng của thiên nhiên đang bật nở. Gió xuân lành lạnh, dù nắng rất huy hoàng ở trên cao.
Chúng tôi ăn mặc chỉnh tề, đủ ấm, và đều đội mũ. Tôi bỏ hai tay trong túi, lững thững. Người đại tá bâng quơ ngắt những đóa hoa bên đường. Dường như mỗi đóa hoa ông đều đưa lên ngửi rất tận tình. Trong con-mắt-không-còn-trong của ông là một nỗi đắm đuối. Gờn gợn như những nếp nhăn ở hai bên thái dương.
-         Không hiểu sao tôi bỗng nhớ mấy đứa cháu quá anh ạ.
Tiếng ông trầm như lôi tôi về một thời rất xa ở miền Bắc. Tôi cũng ngắt một nụ hoa. Không ngửi. Chỉ nhìn rất sâu vào cánh và nhị. Tôi nói vu vơ đáp lời ông:
-         Trẻ con mới thật là những nụ hoa.
-         Thế còn đàn bà? Ông hỏi đùa.
-         Đàn bà là những cái lá. Tôi cười lớn.
Ông cười theo. Tôi nghe được tiếng vang của giọng cười tôi lớn quá, át cả tiếng cười rất ấm của ông. Tôi vội ngậm. Ngượng ngùng. Chúng tôi dừng bước giữa khoảng trời đất quang đãng. Cỏ xanh mời chúng tôi ngồi xuống. Đã quá trưa, sắp chiều. Tôi nói như ngâm nga:
-         Chẳng phải hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ông ngả lưng trên cỏ. Co cánh tay làm gối. Nắng không chói nên mắt ông mở lớn. Khuôn mặt thư giãn. Tôi ngồi gần quá nên nhìn được những đường rãnh li ti chằng chịt trên da mặt ông. Mũi bầu bĩnh. Lông bên trong sợi nâu sợi trắng. Nhân trung sâu dài vừa phải. Cánh môi không đỏ. Nếu ông để râu thì sẽ thưa và không đẹp. Chân râu lấp lánh. Chắc ông sẽ thọ lắm. Trong một thoáng, tôi nghe được cả người ông đang thở hoang mang. Và một mùi vị lạ lùng, vừa thân vừa sơ. Mùi ấy từ thân thể ông thoang thoảng tỏa ra. Mùi của rừng, của núi, của đồng đất. Cộng với mùi rơm rạ củi gỗ pha lẫn nắng mưa. Hốt nhiên cả cánh đồng Miên-Việt ùa về theo ký ức. Đại đội chia làm ba, tiến vào một ngôi làng. Tiếng súng nổ chát chúa. Tôi không thấy khói. Chỉ ngửi thấy mùi chiến tranh. Người lính bên tôi kêu rú. Và ngã chúi. Máu vọt ra rất nhanh. Trong nhấp nháy đã đỏ thắm đầu và mặt hắn. Màng óc tôi như ống kính ghi chụp rất rõ khuôn mặt mếu máo máu đỏ. Màu da tái xanh rồi tím ngắt. Và điều không thể ngờ là, ngay lúc đó, dù tim tôi đang đập loạn, dù tai mắt tôi đang căng cứng đối phó với sự chết lảng vảng, tôi vẫn nghĩ đến câu thơ của Đoàn Phú Tứ màu thời gian không xanh, màu thời gian tím ngắt. Và gật gù một mình. Tôi kinh dị nhìn tôi. Nhìn xác thân người lính đang được tải đi. Nhìn đồng đội từng khuôn mặt lấp ló màu tím đang nghiêm trọng tiến quân. Cỏ cao gần thắt lưng. Rừng lá xanh khô khốc. Nắng đổ trên thân thể nhớp nháp mồ hôi. Hình như tôi đang mất rất nhiều cảm giác…
-         Trời thế này thì nhớ nhà thật.
Giọng ấm áp của người đại tá kéo giật tôi. Vang trong tiếng ông là những tiếng động thầm thì của dĩ vãng. Tôi hỏi:
-         Bây giờ, ở đây, anh nhớ nhất cái gì ?
-         Nhớ nhất vẫn là mấy đứa cháu.
Ông khẽ đáp, cả bằng ánh mắt nhìn trời. Tay ông đang giữ một bó hoa dại. Người đại tá ấy từng xông pha nhiều mặt trận. Là phóng viên chiến trường, tình cờ tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông thành đại diện chính phủ Hà Nội tiếp thu Sài Gòn.
Buổi tối hôm ấy gia đình tôi vừa tới đảo Guam. Không khí hoang mang hoảng hốt của những người di tản làm cái đảo này như đang bị luộc trong nước sôi của biển. Chúng tôi chụm đầu nghe radio tin tức quê nhà. Đến khi đài BBC loan: “…một tấm bia vừa dựng lên: Nơi An Nghỉ của chế độ Cộng Hòa sau 20 năm chiến đấu” thì hàng loạt tiếng khóc nấc vang lên. Sự thật lúc ấy muốn không khóc cũng không được. Nước mắt chan chứa, cứ cuồn cuộn tuôn ra…
-         Còn anh ? Anh nhớ gì ở quê nhà ?
Tiếng ông lại kéo giật tôi lần nữa. Nhưng lần này tôi nổi giận. Tôi toan nói mấy câu gắt gỏng khó chịu. Tiếng quạt động cơ rít lên gầm gừ. Chiếc trực thăng bốc chúng tôi lên thẳng trên cao. Tôi nhìn xuống Sài Gòn đang nhỏ bé dần trong nước mắt. Một tiếng kêu thất lạc ngoài đời hay trong tim khiến tôi nức nở.Cố gắng cười. Rồi tôi thấp giọng hỏi ông:
-         Chắc anh chẳng quên được cái ngày đầu tiên theo xe tăng húc sập cổng Dinh Độc Lập ? Thế lúc ấy anh có cảm giác gì? Anh có thể nhớ mà tả thực cho tôi nghe được không ?
Ông nghiêng mình nhìn tôi rồi lại ngả ra nhìn trời. Mắt ông nhắm lại. Tôi ngại gây tiếng động nên ngồi yên. Rất yên. Chờ đợi.
Tôi và ba người lính ngồi rất yên dưới hố đất thấp ven rừng. Rừng lá vẫn khô khan. Không gió. Những khẩu súng cũng rất yên. Chờ đợi. Lệnh của Đại Bàng. Nhưng bụng chúng tôi không yên. Nó réo lên vì đói. Một người ra mật hiệu sẽ nấu cơm. Hắn lúi húi bỏ gạo vào nón sắt. Tốn cả bi-đông nước mới đủ nấu. Tất cả không gây tiếng động. Trời và rừng vẫn im phăng phắc. Ba người chúng tôi ôm súng canh chừng. Lâu lắm. Tôi liếc thấy hắn nếm mấy hạt cơm. Mùi cơm thơm kỳ lạ, làm tỉnh mọi giác quan. Khuôn mặt hắn đỏ hồng và mếu máo vì khói lửa. Hắn vừa buột miệng: “chín rồi!” vừa bê nón sắt cơm đứng lên. Đoàng một cái! Tiếng nổ chát chúa bàng hoàng! Tiếng kêu nấc của hắn rất ngắn. Lập tức máu ứa loang trên mặt. Tràn vào nón sắt cơm còn ghì ôm trên ngực. Màu cơm trắng. Màu nón sắt xanh cứt ngựa. Màu đỏ máu tía. Cùng với hơi khói mờ đục tỏa bay. Trong hầm đất thấp. Giữa rừng khô thưa lá. Và tôi kịp nhận ra đàn kiến vẫn lặng lẽ đi thành hàng...
Đàn kiến dẫn tôi đến một ngôi làng heo hút. Chúng tôi đã trút vào làng không biết cơ man nào là đạn, lựu đạn, M79…Đến khi thận trọng tiến vào làng thì không thấy gì ngoài những đám cháy nhỏ rải rác. Không cả chó gà…Và bất ngờ ở một hầm đất tránh bom chúng tôi nghe được tiếng người vọng lên. Lập tức đám lính chĩa súng vào miệng hầm, tay cầm lựu đạn quát:” Ra ngay! Không thì chết!”Dưới hầm im lặng. Tôi len đến gần. Lính lại quát:’ Ra ngay! Một lần nữa: Ra ngay! Chúng tao bắn này!” Vẫn im lặng. Họ toan bắn. Tôi cản, và quên cả thận trọng cơ bản, ghé sát miệng hầm nói từ tốn:” Các người nên ra vì nếu không sẽ chết hết. Vì lựu đạn sẽ ném xuống. Không còn cách nào khác đâu. Ra là sống!” Im lặng. Rồi rất từ từ, chúng tôi thấy người chui ra. Lần lượt. Toàn trẻ em, phụ nữ, một ông già, tất cả đến tám mạng! Họ đều run rẩy, hoang mang ngơ ngác! Tôi không dám nhìn họ lâu. Suýt nữa, chúng tôi chỉ là những kẻ giết người !
-         Thực tình thì bấy giờ mình rất đói, và rất khát.
Giọng ông chùng và thân mật. Tôi vội thu ánh mắt miên man. Thật sự nhìn ông. Ông nói tiếp:
-         Anh bảo, mấy ngày đi bộ dài như thế. Mệt lắm chứ!
Tiếng “chứ” kéo dài và hắt cao. Nửa như phân trần. Tôi tần ngần nhìn cây cỏ. Con người ấy, mươi năm trước tôi thấy trên kênh truyền hình PBS trả lời những câu phỏng vấn; loạt Toàn Bộ Cuộc Chiến Tranh Việt Nam của Stanley Karnow. Chiếc xe tăng lừng lững húc đổ cổng Dinh Độc Lập Sài Gòn. Còn trong vụ Thiên An Môn 1989 ở Trung Hoa, chiếc xe tăng bị một thanh niên đứng cản. Hai hình ảnh cùng xuất hiện trong màng óc tôi.
Đại đội đi theo sát những chiếc xe tăng. Bánh xích sắt nghiến nát mặt đất. Cỏ khoai ngô sắn bắn tung tóe. Tầm đạn AK khi cao khi thấp vẫn trả lời loạng choạng. Tôi thấy bóng người thấp thoáng ở rất xa. Lập tức hàng loạt đạn M16 tuôn nổ như bắp rang. Một chiếc tăng gầm rú phóng lên như trâu điên. Những bụi tre gai quằn quại đổ. Đất đỏ quắn lại như những mảnh thịt vụn. Nhưng rốt cuộc chúng tôi không tìm thấy một vệt máu nào.
Chống tay ngồi dậy, gió núi lùa theo bao nhiêu mùi hoa lá, người đại tá  khều tay tôi, giọng tâm sự:
-         Anh biết không. Khi vào đến cổng Dinh Độc Lập tôi mới thấy rằng mình đã quá mệt. Mặc kệ hết! Tôi nằm bừa xuống cỏ. Ngửa nhìn trời. Qua tàng lá me hay phượng vĩ gì đó, tôi thấy trời xanh lơ. Và những cụm mây trắng lững lờ. Trong đầu tôi chỉ có một ý tưởng là :“ À! Chiến tranh đã chấm dứt!” Anh không thể nào hiểu được chúng tôi lúc đó. Chiến tranh đã chấm dứt!!! Nghĩa là…từ đây…chúng tôi sẽ…không còn đói khát – cực khổ - và…day dứt !
Khuôn mặt ông biểu lộ sự thành thực trong khi nói. Tôi nhìn và tôi tin. Chúng tôi từng đi bộ. Ba lô, đạn dược, và ngay cả trang phục nặng nề. Nắng hoặc mưa. Rừng núi sình lầy hay đồng ruộng. Đoàn quân phải bước theo lệnh. Mặc kệ phổi ai, bụng ai, và tim ai dẫu thế nào! Đã nhiều lần tôi không điều khiển được đôi chân. Miệng há hốc. Đầu óc rỗng toang. Chẳng biết cao hay thấp. Chỉ muốn nằm thẳng cẳng! Ra sao thì ra! Thì vừa may có lệnh ngừng. Tôi còn cố đứng. Cố nhìn chung quanh. Cố làm ra vẻ bình tĩnh, ra vẻ chu đáo cẩn thận, trước khi lăn quay xuống đất hay cỏ. Con người tôi thường chống chọi với bản năng. Thành ra trong cuộc chiến, tôi luôn phải chiến đấu song trùng. Nhưng dù cố gắng đến đâu tôi vẫn kém xa một người anh họ. Anh cùng binh chủng, và tác chiến như tôi. Thế mà suốt thời gian ấy anh vẫn học và viết cả dưới giao thông hào để hoàn tất luận án tiến sĩ. Hồi đó chúng tôi đang độ tuổi hai mươi – ngạt ngào lý tưởng, và …tràn đầy tự phụ! Vì kém ngoại ngữ, tôi bèn lập dị bằng cách học chữ Nho. Thế là trong ba lô, trong túi quần tôi đầy chữ Nho. Học nhồi học nhét những nét xổ nét móc chỉ để bớt mặc cảm về sự ít học của mình. Gặp anh , tôi  được dịp khoe kiến thức cổ văn . Dĩ nhiên để nhận lời khen ngợi. Hỡi ơi! Sang Mỹ mấy năm sau tôi mới được tin anh bị tù, rồi bị bắn chết ngay chân rào trại giam! Anh từng viết lên tường, bên giường ngủ: “Sống để trở thành Linh Hồn Việt Nam”. Cuối tháng ba năm 1975, chúng tôi còn chở nhau trên chiếc vélo solex đen, giữa Sài Gòn, để ngắm “thành phố đang đi vào lịch sử”, lời anh tiên đoán. Chiếc vélo solex đen mong manh của chúng tôi nếu húc vào cổng Dinh Độc Lập thì chắc chắn xe cong đổ chứ cổng dinh vẫn …thản nhiên. Tôi chắc rằng khi chiếc xe tăng ủi sập cổng Dinh Độc Lập thì đoàn quân cộng sản hả hê reo hò. Họ hò reo trên bao nỗi đớn đau của người bại trận. Chuyện ấy từng lập lại mãi hoài trong lịch sử. Biết thế nhưng tôi vẫn tức tối hỏi quạu:
-         Đã thế sao các anh không từ tốn mở cổng Dinh đi vào ? Làm oai làm tướng húc đổ cổng để làm gì? Hành động ấy có khác gì quân thảo khấu ?
-         Anh thừa biết mà. Lính tráng họ hứng lên thì có trời mà cản. Ông khoát tay cười xòa.
Tôi đứng bật lên. Cũng có hơi bất lịch sự với ông. Nhưng trong tôi đang vừa sôi nổi tức tối và buồn bã. Tôi bước hụt hẫng bơ vơ. Trời không có khói. Chỉ có mây dàn hàng ngang. Và hơi thở tôi dồn nén theo hàng dọc. Đời người mấy khi hơi thở được tương thông. Có lúc ta thở dài. Đôi khi ta thở ngắn. Nhiều khi ta thở không ra hơi và… nấc cục. Rồi một ngày đẹp trời, ta …không thở nữa!
Tháng 4 năm 1971, tôi bỏ ăn bỏ ngủ vào Bệnh Viện Cộng Hòa ở Gò Vấp nhìn bạn tôi nằm…thở. Anh được tải thương từ chiến trường Cambodia về vì mảnh đạn B40 lọt xuống phổi. Người ta đục ngực, gắn ống plastic để nước dơ và mủ trong phổi có chỗ thoát ra. Anh phải thở bằng ống dưỡng khí. Tuy không nói được, nhưng mắt anh hiểu, và nhếch cười khi nhìn tôi. Một người bạn khác viết đùa hai chữ  TỊNH KHẨU để trước ngực anh. Ngực anh vẫn đều đặn nhô lên thụp xuống. Bẩy đêm sau, tôi một mình đăm đăm theo dõi ngực anh. Bỗng thấy ngực anh thụp xuống rồi…không nhô lên nữa! Tim tôi rối loạn như nghe những tràng đạn AK xối xả. Anh chết trẻ quá, mới vừa tuổi 23. Trong cuộc chiến, bấy giờ chúng tôi chỉ là những thanh niên hăng say lý tưởng và …ngờ nghệch. Chiến tranh làm cái chết mất đi vẻ thần bí và lãng mạn. Nó vội vã, bất ngờ, trắng trợn và tàn nhẫn. Nó dựng đứng trước mặt sau lưng. Nó chặn đứng mọi lối thoát của đời người.
Bao nhiêu năm sau cuộc chiến, ở Mỹ tôi liên lạc được với người bạn cũ cùng đơn vị. Anh đã bị cùm kẹp tra tấn hơn 10 năm ở Việt Bắc. Tội của anh là đeo lon đại úy và làm thơ. Thân anh rũ liệt. Nửa người tê và phù thủng. Anh nói qua ống nghe:”Tao biết Phật Chúa dạy từ bi bác ái. Nhưng xin lỗi. Để kiếp sau. Kiếp này tao không thể quên được hận thù.” Tôi nghe tê tái quá, chỉ lặng thinh, tôn trọng nỗi đau của anh. Anh là một nhà thơ, thỉnh thoảng mới viết văn. Hồi đó chúng tôi vừa chiến đấu vừa chơi trò đố thơ với nhau để giải trí, hoặc để…bớt sợ. Trò chơi đơn giản: người đố đọc một chữ như “đau”.Kẻ kia ráng tìm ra câu thơ có chữ ấy, với tên bài, tên tác giả. Chỉ có thế mà chúng tôi chơi dưới giao thông hào, trên võng hành quân, và ngay cả trong lúc …đánh trận! Y hệt những đứa trẻ con nhà nghèo say mê chơi nút chai và …lõi cuộn chỉ!
Tôi nghe được tiếng ông đứng lên. Hơi nặng nhọc. Tôi dừng lại, nhìn bụi cây hoa trắng. Mùi ông mỗi lúc mỗi gần. Tiếng ông chợt cất lên:
-         Mình không biết anh có ở quân đội không. Chiến tranh nó kỳ cục lăm! Thê thảm, bất công, man rợ, đã đành. Nhưng cái đáng sợ nhất là nó làm ta day dứt! Trong cuộc chiến tiếp theo năm 1979 ở Cambodia, nó khủng khiếp ngoài sức tưởng tượng. Đồng thời nó day dứt quá sức chịu đựng.
-         Chẳng hạn như ? Tôi cố lạnh lùng hỏi.
Tay ông hái thêm đóa hoa trắng, nhỏ giọng:
-         Chẳng hạn những xác phụ nữ Việt bị lính Miên hiếp rồi cho nổ nát âm hộ…
Tôi lại cáu:
-         Tôi đọc báo hồi đó, đảng và nhà nước các ông la toáng lên vì những chuyện ấy rồi. Nhưng tình cờ sau này tôi quen một thanh niên giang hồ. Anh ta từng dự trận ở Cambodia cuối năm 1978, đầu năm1979. Anh ta bảo đoàn quân phần lớn là trai trẻ tuổi từ 16 đến 30. Họ tình nguyện hoặc bị cưỡng bách. Anh ta 17 tuổi, vì túng quẫn nên tình nguyện. Và cũng chuyện khát máu man rợ ấy từ đoàn quân Việt, họ điên cuồng lùng bắt đàn bà Miên. Họ hiếp xong, hoặc bắn chết, hoặc gài thêm lựu đạn cho nổ tung âm vật! Anh ta tâm sự: “Chẳng hiểu sao bấy giờ không ai thấy kinh tởm. Tụi em hành động như lên cơn điên. Như ma làm. Để sau này, cứ chợp mắt là em thấy máu. Hối hận vô ích anh ạ. Chả có cách nào tha thứ cho sự dã man tàn bạo lúc ấy.” Anh ta tình cờ lưu lạc sang tới Mỹ. Nửa điên nửa dại. Sau tôi nghe nói anh ta đã vào hẳn nhà thương điên. Thành ra chuyện anh biết chỉ có một mặt...
Ông gật gù yên lặng. Tôi tự hỏi: Ta có nên tự ti hay tự tôn trong các cuộc chiến của ta vừa qua không ? Có nên kể lể với các thế hệ sau không? Có nên bào chữa rằng tự vệ là bản năng sinh tồn không? Có nên thần thánh hóa, lãng mạn hóa,    hay phóng đại cuộc chiến nữa không? Tôi định nói:” Thôi anh ạ. Dù gì cỏ xanh cũng đã phủ kín những nấm mồ. Phủ kín những hố bom lỗ đạn, những xác máy bay, xe tăng…như thể mặt đất bị thương, giờ đang kéo da non. Trái đất này đang cần rất nhiều màu xanh. Anh từng trương cờ đỏ, húc đổ cổng tường. Rồi anh nằm trên cỏ xanh. Nhìn lên trời xanh. Mơ mộng về cõi xanh. Chắc lòng anh rồi sẽ …xanh.” Nhưng nhìn kỹ lại ông, trong không gian rực rỡ nắng vàng, và rừng núi Santa Cruz  xanh ngát, tôi …bâng khuâng! Trong khoảnh khắc, tất cả bỗng xa vắng vô cùng...

tường vũ anh thy  san jose 1992
Ghi chú: Tôi viết truyện này hoàn toàn dựa vào những sự có thật, sau chuyến đi chơi loanh quanh với người bạn bác sĩ và người đại tá từ Pháp sang. Chúng tôi hội ngộ vào tháng 4/1992. Lúc đầu truyện có tên Mystery Spot, một địa điểm du lịch ở Santa Cruz, California, Hoa Kỳ; đã đăng trên tạp chí Khởi Hành số 18-tháng 4/1998. Nay đọc lại bản thảo viết tay, tôi tự đánh máy, sửa chữa và đổi tên cho đúng ý nghĩa hơn. tvat 26/3/11

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015

thưởng thức thời gian






nếu ta hôn thời gian
ta sẽ nghe được tiếng rạo rực
và mùi cốm của hoa thủy tiên

nếu ta nhai thời gian
ta sẽ nghe được tiếng giòn rụm
và mùi nồng của hoa hồng

nếu ta chôn thời gian
ta sẽ nghe được tiếng nấc cục
và mùi lá mục rất xa xăm

từ cánh rừng ven biển
tôi nằm thưởng thức cùng lúc hiện tại tương lai quá khứ